Chương 2: Chuyện thứ nhất: Hoa anh đào (2)

Đây cũng là lần đầu tiên tôi đi một mình đến ga Shinjuku, một ga chẳng lấy gì làm thân quen với cuộc sống thường nhật của tôi. Nói mới nhớ, cách đây mấy tháng tôi có hẹn với một bạn cùng lớp đi xem phim ở Shinjuku. Lúc đó, cả tôi và bạn đã đến ga này trên tuyến Odakyu, nhưng sau đó chúng tôi bị lạc ở cửa Đông tuyến JR, lúc tìm đường ra khỏi ga. Sự chộn rộn, náo nhiệt của ga Shinjuku còn để lại ấn tượng mạnh mẽ trong tôi, hơn cả bộ phim hôm đó chúng tôi cùng xem.

Ra khỏi cửa soát vé của tuyến Odakyu, tôi đảo mắt tìm bảng chỉ dẫn để không bị lạc lần nữa, chân bước nhanh về hướng có ghi “Cửa bán vé tuyến JR”. Bên kia khoảng rộng mênh mông có hàng cột trải dài là khu vực kê san sát mấy chục cỗ máy bán vé tự động, tôi chọn một hàng thưa người nhất, chờ mua vé. Đứng trước tôi là một phụ nữ, trông như dân văn phòng, mùi nước hoa dịu ngọt của chị không hiểu sao làm ngực tôi đau nhói. Hàng kế bên nhích dần lên, lần này là mùi băng phiến từ áo khoác của người đàn ông trung niên đứng ngang hàng với tôi, gợi nhắc tôi về nỗi bất an khi chuyển nhà. Khoảng không gian dưới lòng đất bị lấp đầy bởi đủ loại tạp âm, hỗn độn và huyên náo. Mũi giày của tôi lạnh buốt vì tuyết đang tan ra, đầu thì cứ ong ong lên. Đến lượt mình mua vé, tôi mới nhận ra không có nút bấm nào trên máy (thời đó hầu như tất cả các máy bán vé tự động đều là dạng nút bấm). Tôi liếc sang bên cạnh mới biết chỉ cần chạm tay vào màn hình là có thể lựa chọn vé cần mua.

Qua cửa soát vé tự động để vào sâu trong ga, tôi nhìn kĩ bảng chỉ dẫn rồi nhanh chóng len lỏi vào dòng người tìm lối ra đường ray tuyến Saikyo. Nào là “Yamanote – ngoại tuyến”, “Soubu – hướng đi Nakano”, nào là “Yamanote – nội tuyến”, “Soubu – hướng đi Chiba”, nào là “Chou – tàu nhanh”, “Chou – tàu tốc hành”… Băng qua hàng loạt điểm dừng chờ tàu, tôi mới trông thấy tấm bản đồ chỉ dẫn trong ga. Tuyến Saikyo ở góc trong cùng. Tôi rút mảnh giấy ghi nhớ trong túi ra, xem lại thời gian và nhìn đồng hồ (chiếc đồng hồ G-shock màu đen là món quà do ba mẹ tặng nhân dịp tôi lên cấp II). Chuyến tàu khởi hành từ ga Shinjuku, lúc 4 giờ 26 phút. Đồng hồ chỉ 4 giờ 15 phút. Thế là yên tâm rồi, tôi vẫn còn dư mười phút.

Đang đi thì nhìn thấy nhà vệ sinh, tôi bèn vào cho yên tâm. Tôi sẽ ngồi trên tuyến Saikyo những bốn mươi phút nên tiện thì “giải quyết” luôn. Vừa rửa tay, tôi vừa nhìn lại mình trong gương. Hình ảnh tôi hiện lên mờ ảo dưới ánh đèn nê ông, sau mặt gương cáu bẩn. So với cách đây nửa năm, tôi đã cao thêm mấy phân và trông có vẻ chững chạc hơn. Không hiểu vì mưa lạnh hay vì tinh thần phấn chấn mà má tôi đỏ ửng lên, điều đó làm tôi có chút ngượng ngùng. Thế là tôi sắp được gặp lại Akari.

Lượng người đổ về nhà sau giờ tan tầm đông đến nỗi tàu không còn một chỗ ngồi. Như bao người khác, tôi tìm được một chỗ có thể dựa lưng ở thành tàu phía trong cùng, hết nhìn tờ áp phích quảng cáo lại nhìn ra bên ngoài. Thỉnh thoảng liếc sang hành khách xung quanh. Tâm trạng rối bời và mắt không thể tập trung vào một điểm nên tôi từ bỏ ý định lôi cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng vẫn để trong cặp ra đọc. Đành quay sang nghe lén mẩu đối thoại giữa một nữ sinh cấp III ngồi hàng ghế gần đấy với một cô nữa áng chừng là bạn đang đứng ngay trước mặt cô ta. Cả hai đều mặc váy ngắn phô đôi chân đi vớ thụng.

“Thấy anh chàng bữa trước sao?”

“Còn ai nữa, cái anh học cấp III Kita đó.”

“Hả, gu ‘thẩm mỹ’ có bình thường không đấy?”

“Sao đâu, mình thích kiểu đấy.”

Chắc họ đang bàn tán về anh chàng mới quen. Dù không phải họ nói về tôi, tự dưng tôi vẫn thấy mặt nóng bừng vì ngượng. Tôi kiểm tra lại để chắc chắn lá thư vẫn nằm gọn trong túi áo khoác rồi đưa mắt nhìn ra bên ngoài. Đoàn tàu vừa đi qua cây cầu khá cao, bắc ngang sông. Đây cũng là tuyến đường lần đầu tiên tôi đi qua. Cách nó rung lắc, hay những âm thanh nó phát ra khác hẳn với tàu tuyến Odakyu tôi vẫn đi hằng ngày. Điều đó càng làm lớn thêm nỗi bất an khi phải một mình đến nơi xa lạ. Nắng chiều đông yếu ớt nhuộm chân trời thành màu cam nhạt. Phía xa kia là bóng hình những ngôi nhà nằm san sát nhau. Tuyết vẫn rơi mải miết. Tàu đi hết Tokyo và có lẽ đã sang địa phận tỉnh Saitama. Phong cảnh tự nhiên tuy khác, nhưng kiến trúc đô thị thì vẫn nhang nhác thế. Đất đai bị lấp đầy bởi những tòa nhà hay chung cư cao vừa tầm.

Tàu dừng lại một lúc ở ga Musashi Urawa để hành khách có nhu cầu đi tàu nhanh còn chuyển tuyến. “Những hành khách cần đến Omiya sớm hơn vui lòng chuyển sang tuyến đối diện.” Loa phát đi thông báo và hơn nửa số hành khách lục tục xuống tàu, bắt đầu xếp hàng ở phía bên kia, tôi cũng đi theo đến đứng ở cuối hàng. Tuyết lất phất rơi, mây trĩu thấp phía trời Tây và xuyên qua nó là những tia nắng cuối ngày, phủ xuống nhà cửa đằng xa một màu ảm đạm. Nhìn khung cảnh đó, tôi chợt nhớ ngày xưa tôi đã từng đi qua ga này.

Đúng rồi, đây không phải là lần đầu tiên.

Ngay trước khi tôi vào lớp Ba, gia đình chuyển từ Nagano lên Tokyo. Khi đó tôi cùng ba mẹ cũng đến Shinjuku qua ga Omiya. Tôi còn nhớ như in cảm giác lo sợ thế nào khi chứng kiến sự huyên náo của Omiya, khác xa khung cảnh đồng quê yên bình ở Nagano tôi vẫn thấy trước kia. Tôi sợ phát khóc khi nghĩ đến việc từ giờ mình sẽ phải sống giữa một nơi chỉ có những tòa cao ốc lạnh giá và tách biệt. Vậy mà đã năm năm qua, không hiểu bằng cách nào tôi vẫn tồn tại đến giây phút này? Tôi mới mười ba tuổi thôi, nhưng không hề cho rằng ý nghĩ của mình có phần cường điệu. Tôi phải biết ơn Akari vì đã sát cánh cùng tôi trong suốt những năm qua và ước gì mình cũng có ý nghĩa đặc biệt như thế với em.

Ga Omiya cũng rất lớn nhưng quy mô chưa bằng Shinjuku. Tôi rời khỏi tuyến Saikyo, leo lên một cầu thang bộ rất dài trước khi hòa vào dòng người đông đúc trong ga và tiến thẳng đến đường ray tuyến Utsunomiya. Tuyết bám trên giày của hành khách đi lại trong ga đang tan dần ra, làm mùi tuyết xộc thẳng lên mũi. Tuyến Utsunomiya cũng chủ yếu là hành khách về nhà sau giờ tan tầm nên đã có một lượng người rất lớn đang xếp hàng chờ lên tàu. Tôi đứng tách ra, lui vào một góc chờ đợi. Vì chắc mẩm dù xếp hàng đi nữa thì lên tàu cũng không có ghế ngồi. Lúc đó, lần đầu tiên trong ngày, dự cảm không lành ập vào tôi. Phải mất đến vài giây tôi mới nhận ra, đấy là bởi có thông báo của nhà ga.

“Chúng tôi xin được thông báo với tất cả quý khách. Do tuyết rơi nhiều, chuyến tàu đi Koyama, tuyến Utsunomiya, sẽ đến trễ tám phút so với lịch trình ban đầu.”

Trước khi có thông báo này, tôi không hề tính tới khả năng tàu đến trễ. Tôi nhìn giờ tàu trên mảnh giấy ghi chú, rồi lại nhìn đồng hồ. Theo dự tính thì tôi sẽ lên tàu lúc 5 giờ 5 phút, nhưng bây giờ đã là 5 giờ 10 phút. Dường như một luồng khí lạnh bất chợt thổi qua làm toàn thân tôi run rẩy. Hai phút sau, tiếng còi tàu kéo dài vọng lại từ xa và ánh đèn pha rọi vào người vẫn không làm tôi hết run.

Tuyến Utsunomiya thậm chí còn đông hơn cả tuyến Odakyu hay Saikyo. Bởi đúng giờ tan tầm và bọn trẻ tan học nên dòng người đổ về ga ngày càng lớn. Trong số những chuyến tàu hôm nay tôi đã lên, tàu này trông cũ hơn, ghế ngồi chia thành từng cụm bốn chiếc và xếp thành hai hàng đối diện nhau. Nó gợi nhớ những tuyến tàu địa phương lúc tôi còn sống ở Nagano. Tôi vịn một tay lên thành ghế, tay kia nhét vô túi áo khoác và đứng gần lối đi chật hẹp giữa các hàng ghế. Hơi ấm từ lò sưởi lan tỏa khắp toa tàu, bên ngoài sương đọng thành hạt lấm tấm phủ đầy ô cửa kính. Nét mặt của mọi người đượm vẻ mệt mỏi, họ ngồi im lặng bên nhau không ai buồn nói chuyện, dáng vẻ trông vừa vặn phù hợp với con tàu cũ kĩ đang lững lờ ánh đèn nê ông, chỉ mình tôi là không ăn nhập với nơi này. Tôi cố hít một hơi thật sâu để xua tan cảm giác lạc lõng đến khó chịu, rồi lặng nhìn từng khung cảnh lần lượt lướt qua bên ngoài cửa sổ.

Nhà cửa bắt đầu thưa thớt và càng lúc càng xa khuất khỏi tầm mắt, chỉ còn đồng ruộng phủ trắng tuyết, trải dài đến vô tận. Ánh đèn phát ra từ khu nhà dân phía xa kia giờ đã biến thành những chấm nhỏ li ti. Trên những cột chỉ dẫn lên núi chạy dọc hai bên đường, đèn hiệu đỏ sáng nhấp nháy. Bóng dáng đen thẫm của nó in trên mặt tuyết trông giống hệt những chiến binh thép khổng lồ đứng trang nghiêm trong bão. Tôi vừa ngắm nhìn thế giới hỗn mang, xa lạ ấy vừa nghĩ đến cuộc hẹn với Akari. Nếu đến trễ, tôi không biết làm thế nào để liên lạc được với em. Thời của chúng tôi, học sinh cấp II mang điện thoại di động vẫn là một điều khá xa xỉ. Thậm chí tôi không biết số điện thoại bàn của Akari.

Bên ngoài cửa sổ, tuyết rơi mỗi lúc một dày và nặng.

Con tàu vẫn oằn mình chạy trong màn tuyết trắng xóa, hơn một tiếng đồng hồ trôi qua rồi mà ga Koyama vẫn còn rất xa. Khoảng cách giữa các ga lẻ như bị kéo dài ra, thời gian dừng tàu cũng lâu đến mức khó hiểu. Mỗi lần như thế, trên tàu vẫn chỉ phát đi giọng thông báo đều đều, “Thành thật xin lỗi quý khách về sự chậm trễ. Do các chuyến tàu khác cũng bị chậm nên chúng tôi xin được dừng ở ga trong giây lát. Xin quý khách vui lòng đợi…”

Tôi nhìn đồng hồ, hết lần này đến lần khác, và chỉ ước mong sao kim chỉ giờ không nhích đến số 7. Nhưng vô ích thôi, con tàu không nhúc nhích dù chỉ một centimet, chỉ có thời gian vẫn vô tình trôi. Cứ thế, tôi có cảm giác đau và nhức như đang bị hàng ngàn hàng vạn mũi tên vô hình chĩa vào mình. Tôi gần như không nhìn thấy gì xung quanh, lớp không gian đặc quánh như thu hẹp lại dần. “Trễ rồi, vô ích thôi,” tôi tự nhủ.

Đã quá 7 giờ mà tàu còn chưa đến Koyama thì làm sao tôi đến đúng hẹn được. Khi chỉ còn cách Koyama hai ga, tàu dừng lại ở Nogi. Từ ga này đến Iwafune, là ga mà Akari đang chờ, còn mất một lần đổi tàu và khoảng hai mươi phút di chuyển nữa. Đã hai tiếng đồng hồ trôi qua từ lúc tàu rời ga Omiya, sự kiên nhẫn thì mất dần mà nỗi tuyệt vọng lại đầy lên. Có lẽ trong cuộc đời, tôi chưa bao giờ thấy quãng thời gian nào lại dài và khổ sở như lúc này. Tôi thậm chí còn không biết trong tàu đang nóng hay lạnh. Điều duy nhất tôi có thể cảm nhận được là hương vị của đêm sâu, và chợt nhận ra bụng đói cồn cào vì từ trưa đến giờ không ăn uống gì hết. Lúc này tôi mới nhìn ra xung quanh, hành khách xuống gần hết, chỉ còn tôi vẫn đứng. Tôi tìm một chiếc ghế trống gần đó, buông mình xuống và lập tức cảm tưởng cả người tê dại đi, bao mệt mỏi tích tụ trong cơ thể từ đầu tới giờ có dịp trào ra, qua từng tế bào. Nhưng tôi vẫn không thể nào trút bỏ hết những căng thẳng vẫn chất chứa trong lòng mình được. Tôi rút lá thư gửi Akari ra khỏi túi áo khoác và nhìn chằm chằm vào nó. Quá giờ hẹn mất rồi, hẳn là Akari đang lo lắm đây. Tôi nhớ lại lần nói chuyện cuối cùng với em qua điện thoại. Tại sao? Tại sao mọi sự với chúng tôi luôn bất trắc thế này?

Tàu đỗ lại ga Nogi khoảng mười lăm phút rồi tiếp tục chuyển động.

Cuối cùng cũng đến được Koyama, lúc đó đã quá 7 giờ 40 phút. Tôi xuống tàu và đổi sang tuyến Ryomo. Tờ ghi nhớ giờ đã hoàn toàn vô dụng nên tôi vo tròn lại và ném vào thùng rác gần đấy.

Ga Koyama tương đối lớn, nhưng rất vắng người. Lúc chạy qua, tôi chỉ trông thấy lác đác vài người ngồi đợi ở phòng chờ rộng thênh thang. Chắc toàn những người lái xe đến đây để đón người thân. Họ ngồi đó an nhiên, bình thản, hài hòa với cảnh vật, chỉ mình tôi là bươn bả lao đi.

Tôi phải chạy xuống cầu thang, băng qua lối đi bộ dưới lòng đất để đến được nhà chờ tuyến Ryomo. Lúc này mới kịp nhận ra, dưới chân mình không phải là lớp gạch men như thường thấy, thay vào đó là mặt bê tông thô nhám. Hai hàng cột vuông cũng bằng bê tông chạy đều tăm tắp, cuốn theo các loại đường ống kéo dài lên đến tận trần nhà. Đường ray nằm giữa hai hàng cột cao lớn đó. Không gian u tịch bị lấp đầy bởi tiếng gầm gừ của gió và tuyết. Ánh đèn pha trắng xanh của con tàu như muốn đâm xuyên bức màn trong đường hầm u tối. Tôi đi qua mấy ki ốt đã đóng của im lìm, chỉ sợ mình đi lạc. May thay vừa lúc nhận ra có bóng người đang đứng chờ tàu. Không khí lạnh lẽo bao trùm lên vạn vật, chỉ có ánh đèn vàng từ quầy mì soba và hai cái máy bán hàng tự động còn phảng phất chút hơi ấm.

“Vì lí do thời tiết xấu, tàu của chúng tôi sẽ khởi hành muộn hơn dự kiến. Chúng tôi thành thật cáo lỗi vì sự chậm trễ này. Mong quý khách kiên nhẫn chờ đến khi tàu có thể khởi hành.” Vẫn là tiếng loa thông báo vô cảm như mọi lần. Tôi kéo mũ áo khoác trùm lên đầu cho đỡ lạnh, và đứng nép mình vào cái cột gần đấy để tránh gió trong lúc chờ tàu. Một luồng khí lạnh thốc lên từ mặt nền bê tông, cảm giác tê buốt toàn thân. Người tôi sắp sửa đóng băng mất, vừa lạnh vừa đói, nhưng trên hết là cảm giác sốt ruột và có lỗi khi bắt Akari phải chờ đợi mình. Tôi trông thấy hai người đàn ông đứng ăn mì soba bên xe đẩy, tự dưng thèm được húp xì xụp bát mì nóng lúc này. Nhưng nghĩ mà xem, Akari cũng đang bụng đói chờ đợi tôi, sao nỡ ăn một mình ở đây. Thôi thì một lon cà phê nóng chắc không có gì là quá đáng, thế là tôi tiến lại gần máy bán hàng tự động. Vừa rút ví trong túi ra, lá thư gửi Akari cũng rơi theo.

Giờ ngẫm lại, nếu không có sự việc như thế xảy ra, tôi cũng đâu dám chắc là mình sẽ trao lá thư cho Akari. Bởi dù có thế nào, kết quả chúng ta nhận được vẫn không hề thay đổi. Cuộc đời sẽ đặt ra muôn vàn thử thách, muôn vàn điều chúng ta không hề mong muốn, và lá thư chỉ là một mắt xích nhỏ, rất nhỏ trong số đó thôi. Rốt cuộc, tình cảm dù mạnh mẽ nồng nhiệt đến đâu đi nữa thì cũng sẽ phai mờ theo thời gian, từng chút một. Bất kể tôi có trao lá thư cho Akari hay không.

Lá thư rơi ra theo ví tiền ngay lập tức bị gió thổi bay khỏi sân ga và biến mất trong tấm màn đen kịt của đêm, chỉ trong một chớp mắt. Thực sự lúc đó tôi suýt bật khóc thành tiếng. Nhưng theo phản xạ, tôi cúi gằm mặt xuống, hai hàm răng nghiến chặt vào nhau để cố ngăn mình nức nở. Tôi không mua lon cà phê đó nữa.

Cuối cùng, tôi lên được tàu chuyến Ryomo nhưng nó ngừng chạy giữa đường. “Vì tình hình tuyết rơi khá dày, chúng tôi buộc phải dừng tàu để tránh những rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra.” Trên tàu lại phát đi thông báo. “Chúng tôi thành thật xin lỗi quý khách về sự chậm trễ này, hiện tại chưa xác định được thời gian tàu sẽ khởi hành lại”. Bên ngoài là đồng ruộng mênh mông, phủ đầy tuyết trắng. Gió rít lên từng hồi, đập vào thành tàu tạo nên thứ âm thanh ghê rợn. Tôi thấy hoang mang hơn bao giờ hết, tại sao tàu lại phải dừng ở nơi đồng không mông quạnh thế này? Tôi nhìn xuống đồng hồ, quá giờ hẹn với Akari mất hai tiếng rồi. Tôi chắc mình đã xem đồng hồ cả trăm lần trong ngày hôm nay. Để tránh việc phải nhìn thời gian trôi đi trong vô vọng thế này, tôi tháo đồng hồ đặt lên bàn cạnh cửa sổ. Giờ đây, tôi còn biết làm gì ngoài việc cầu nguyện cho đến lúc tàu lăn bánh trở lại.

“Takaki à, cậu khỏe không?” Akari viết trong thư. “Hôm nay tớ phải đi tập cùng câu lạc bộ từ sáng sớm nên tớ viết lá thư này trên tàu điện.”

Hình ảnh Akari đang viết thư hiện ra trong tâm trí tôi. Sao lúc nào em cũng chỉ một mình? Giống tôi, cũng một mình đơn độc. Ở trường, tôi có vài người bạn nhưng như lúc này đây, chỉ mình tôi ngồi trên tàu, mũ đậy trên mặt, đây mới thực sự là con người thật của tôi. Máy sưởi chạy hết công suất và cả đoàn tàu có bốn toa với số lượng hành khách chỉ đếm trên đầu ngón tay mà không khí vẫn lạnh toát đến khó tin.

Phải nói gì để diễn tả hết cảm giác của tôi lúc này nhỉ? Có lẽ đây là khoảng thời gian nghiệt ngã nhất tôi từng trải qua trong cuộc đời mình. Tôi co rúm người lại, hàm răng nghiến chặt để giữ mình không khóc và điều duy nhất có thể làm lúc này là cố gắng chịu đựng cái khoảng thời gian đang bị đóng băng một cách tàn nhẫn. Cứ nghĩ đến việc Akari cũng đang chờ đợi tôi ở một nơi lạnh lẽo, cô đơn, tôi như muốn phát điên. Tôi chỉ cầu mong sao em đừng chờ tôi nữa, cứ về nhà đi, có lẽ tôi thấy còn dễ chịu hơn.

Nhưng tôi tin chắc, Akari vẫn chờ tôi.

Hơn ai hết, tôi hiểu em không bao giờ bỏ mặc tôi, nhưng càng tin như thế, tôi càng cảm thấy đau khổ, giày vò. Bên ngoài cửa sổ, tuyết thì vẫn rơi, rơi mãi như không biết đến điểm dừng.

4

Hơn hai tiếng sau, tàu hoạt động trở lại. Đến ga Iwafune, nhìn đồng hồ đã hơn 11 giờ, nghĩa là tôi trễ hẹn bốn tiếng đồng hồ. 11 giờ, thời khắc của đêm khuya. Tôi bước xuống tàu, mũi giày liền thục vào lớp tuyết mới phủ, phát ra một âm thanh êm dịu. Gió ngừng thổi và tuyết bời bời vẫn lặng lẽ rơi trong đêm. Xung quanh nhà ga không dựng tường bao, đứng từ đây có thể nhìn ra cánh đồng tuyết trắng xóa trước mặt. Không gian gần như yên tĩnh tuyệt đối, chỉ còn vài đốm sáng yếu ớt của ngọn đèn đường và tiếng động cơ chạy rì rì của con tàu vừa đỗ lại ga.

Tôi băng qua cầu vượt và tiến đến gần cửa soát vé. Từ trên cầu tôi có thể quan sát khu phố nhỏ bé ngay trước ga. Cả thị trấn đã chìm sâu vào giấc ngủ để mặc làn tuyết trắng bao phủ bên ngoài, lác đác vài ngôi nhà còn sáng đèn. Tôi đưa vé cho người soát rồi tiến nhanh vào khu nhà ga làm bằng gỗ. Ngay cạnh cửa soát vé là phòng chờ. Tôi vừa bước vào, không khí ấm áp và cái mùi quen thuộc từ chiếc máy sưởi chạy dầu hỏa nồng đượm bao bọc lấy tôi. Cảnh tượng trước mắt không hiểu sao làm l*иg ngực tôi nóng ran, tôi phải nhắm nghiền mắt chờ cảm giác ấy trôi qua. Một lát sau, tôi từ từ mở mắt trở lại. Người con gái mặc áo khoác trắng ngồi trên ghế cạnh lò sưởi, đang nhìn xuống, ban đầu tôi ngỡ là một người không quen. Phải mất một lúc tôi mới dần dà tiến lại gần, khẽ gọi “Akari!” Giọng tôi như thể vừa gọi tên một người xa lạ. Cô gái ngẩng đầu lên, nhìn về phía tôi, ánh nhìn pha chút kinh ngạc.

Đúng là Akari! Đôi mắt mở to, đỏ hoe và ngân ngấn nước. So với cách đây hơn một năm, Akari trông người lớn hơn, ánh sáng vàng từ lò sưởi phản chiếu trên gương mặt em rực rỡ mà ấm áp. Quả thật, tôi chưa từng thấy người con gái nào đẹp đến thế. Tôi chỉ biết ngây người nhìn ngắm, không thốt nên lời. Tim như muốn ngừng đập vì có một bàn tay vô hình bóp nghẹt lấy nó. Đó là thứ cảm giác tôi không thể gọi thành tên, chỉ biết mắt tôi không rời khỏi em. Vào khoảnh khắc chúng tôi nhìn nhau, những giọt nước cứ lớn dần trong mắt Akari và trào xuống hai bên má. Tôi ngơ ngẩn nhìn những giọt nước mắt lóng lánh như châu sa. Bất chợt Akari đưa tay ra, túm lấy vạt áo khoác của tôi, kéo tôi lại gần em thêm một bước. Ngay lúc đó, tôi thấy có mấy giọt nước rơi trên bàn tay mảnh khảnh đang giữ chặt vạt áo của mình. Thì ra mình cũng đang khóc, những giọt nước mắt là cảm xúc tích tụ bấy lâu nay, được dịp trào ra, không gì ngăn lại nổi. Ấm nước đặt trên lò sưởi đang sôi, tiếng kêu lục bục phát ra khuấy động căn phòng nhỏ bé.

Akari mang theo trà nóng và cơm hộp do chính tay em làm. Chúng tôi ngồi xuống ghế cạnh lò sưởi, hộp cơm đặt giữa hai đứa. Tôi đón chén trà từ tay Akari. Trà vẫn còn ấm nóng và hương vị thật tuyệt vời.

“Ngon quá!” Tôi chân thành khen.

“Thật không, chỉ là loại trà Houji bình thường thôi mà.”

“Trà Houji ư? Lần đầu tiên tớ được uống loại trà này.”

“Xạo quá! Chắc chắn cậu từng uống rồi,” Akari nói vậy nhưng thực sự lần đầu tiên tôi được uống trà ngon đến thế. Tôi đáp bâng quơ, “Thật vậy sao…”

Akari chắc thấy mắc cười vì tôi. “Thật đấy!” Em đáp.

Cả giọng nói lẫn ngoại hình của Akari đều người lớn hơn tôi hằng hình dung, nhưng vẫn dịu dàng pha chút tinh nghịch và e thẹn. Chỉ cần được nghe Akari nói, toàn bộ cơ thể tôi như được sưởi ấm.

“Mình ăn thôi, cái này này,” Akari vừa nói vừa mở nắp cơm hộp, trong đó có hai chiếc khay nhựa. Một khay có bốn nắm cơm, khay còn lại là thức ăn với đủ loại màu sắc. Nào là thịt băm viên, xúc xích, trứng rán, cà chua bi, xúp lơ xanh… Mỗi loại thức ăn đều có hai phần, bày biện vô cùng đẹp mắt.

“Tớ không dám chắc đồ mình nấu sẽ ngon đâu nhưng…” Akari vừa nói vừa gấp chiếc khăn gói đồ ăn rồi đặt lên đùi. Em ngượng ngùng tiếp, “Nếu cậu không chê, cứ tự nhiên nhé.”

“Cảm ơn cậu, Akari.” Rốt cuộc tôi cũng nói được câu gì đó. Và thêm một lần nữa, tôi có cảm giác nóng ran trong l*иg ngực, nước mắt chỉ chực rơi xuống nhưng khóc bây giờ thật không đáng mặt nam nhi, nên tôi cố kiềm chế để nước mắt không trào ra. Lúc này tôi mới nhớ đến cái bụng đói cồn cào, không để mất thời gian hơn nữa bèn nói, “Tớ đói lắm rồi”. Akari nhìn tôi, nụ cười ngập tràn hạnh phúc.

Cơm nắm được nắm rất chắc và khéo, tôi cắn một miếng rõ to, phồng cả hai bên má. Không hiểu sao tôi muốn khóc òa ngay lúc đó nhưng phải cúi gằm mặt xuống để Akari không nhận ra. Tôi chưa bao giờ ăn món gì ngon như cơm nắm hôm đó.

“Đây là món ngon nhất tớ từng được ăn đấy.” Tôi nói rất chân thành.

“Cậu lại khen quá lời.”

“Tớ nói thật mà.”

“Chẳng qua vì cậu đang đói thôi.”

“Thế à…”

“Đúng thế mà. Tớ cũng muốn ăn…” Akari cười sung sướиɠ và lấy một nắm cơm cho mình. Chúng tôi ăn say sưa, hết món này đến món khác. Lúc tôi nói điều đó với Akari, mặt em đỏ bừng, sau đó thì không giấu được niềm tự hào, “Học xong tớ về nhà làm rồi mới đến đây đấy,” Akari nói. “À, mẹ có chỉ cho tớ cách làm…”

“Cậu có nói gì với mẹ không?”

“Dù muộn nhưng con nhất định sẽ về nên ba mẹ đừng lo nhé. Tớ đã viết tin nhắn để lại rồi.”

“Tớ cũng thế. Nhưng này, ba mẹ cậu chắc đang lo lắm.”

“Ừ… m. Thực ra thì, không sao đâu. Vì lúc tớ làm cơm, mẹ hỏi là làm cho ai đấy, tớ chỉ cười thôi. Mẹ có vẻ vui lắm. Chắc mẹ sẽ hiểu mà.”

Tôi khá tò mò, không rõ Akari nói mẹ-sẽ-hiểu là ý gì? Nhưng tôi không dám hỏi, vẫn tiếp tục ăn. Mỗi đứa ăn hai nắm cơm và đầy ú ụ thức ăn. Bụng no căng rồi, cảm giác không còn gì phải đòi hỏi thêm nữa.

Chúng tôi ngồi quay mặt về phía lò sưởi, vầng trán nóng bừng lên, ánh sáng màu vàng phản chiếu khắp gian phòng. Hai đứa vừa uống trà, vừa thao thao bất tuyệt đủ thứ chuyện trên đời, không bận tâm bao nhiêu thời gian đã trôi qua. Thậm chí, cả hai đều không nghĩ đến việc phải về nhà. Dù không nói ra thành lời nhưng cả hai đều ngầm hiểu với nhau như thế.

Có bao nhiêu chuyện cần tâm sự, phải tâm sự bằng hết, cả nỗi cô đơn suốt hơn một năm qua. Khỏi phải nói hai đứa đã buồn bã thế nào, đã cô đơn, nhớ nhung thế nào. Qua những câu chuyện tuôn dài bất tận, chúng tôi thấu hiểu cảm giác của người kia.

“Cốc… cốc…” Nhân viên nhà ga tiến lại gần, gõ lên kính cửa sổ để nhắc nhở. Lúc này chúng tôi mới nhận ra, đã hơn 12 giờ.

“Nhà ga sắp đóng cửa rồi. Bây giờ cũng không còn tàu nữa đâu các cháu ạ.”

Chính là người soát vé cho tôi ở cửa ga lúc tôi mới đến. Tôi nghĩ sẽ bị chú mắng vì giờ này còn lần khân ở đây, nhưng chú chỉ mỉm cười.

“Thấy các cháu nói chuyện vui vẻ chú không nỡ làm phiền…” Giọng chú nghe hiền hậu và bao dung. “Nhưng muộn quá rồi nên chú phải đóng cửa ga, quy định là thế. Tuyết rơi dày lắm, các cháu về cẩn thận nhé.”

Chúng tôi tỏ lời cảm ơn và rời khỏi nhà ga.

Thị trấn chìm trong tuyết trắng. Tuyết vẫn rơi miên man, nhưng lạ lùng thay ở giữa đêm sâu với bầu trời và mặt đất chỉ một màu trắng xóa, mà tôi không hề thấy lạnh. Ngược lại, đâu đó trong lòng chúng tôi hân hoan vì được đi cùng nhau, trên mặt tuyết mới phủ. Tôi cao hơn Akari vài centimet, chỉ bấy nhiêu thôi đã đủ làm tôi hãnh diện. Đèn đường rọi xuống tuyết tạo nên những đốm tròn màu trắng xanh, nhảy múa như đang dẫn đường chỉ lối cho chúng tôi. Akari bỗng dưng phấn khích và chạy ào lên trước, tôi dõi mắt theo dáng hình đầy hoài niệm của em. Akari đã trưởng thành hơn rất nhiều so với Akari của kí ức tôi rồi.

Như Akari gợi ý, chúng tôi đi ngắm cây anh đào cổ thụ mà em từng kể trong thư. Chỉ cách ga mười phút đi bộ nhưng hoàn toàn là một bãi đất hoang, không nhà cửa, không đèn điện. Nguồn sáng duy nhất nơi đây là ánh bàng bạc của tuyết. Khung cảnh đẹp đến ngỡ ngàng, tựa như một tác phẩm điêu khắc tinh xảo do ai đó dày công chạm trổ.

Cây anh đào đứng đơn độc một mình, cạnh lối đi dẫn ra cánh đồng lúa. Thân cây cao lớn, tán tỏa rộng, hai chúng tôi đứng dưới gốc cây và ngẩng mặt nhìn trời. Tuyết rơi qua tầng tầng lớp lớp những tán cây và âm thầm nhảy múa trên nền trời đen thẫm.

“Này, trông cứ như tuyết rơi ấy nhỉ.” Akari nói.

“Ừ, đúng vậy,” tôi đáp. Chúng tôi như được sống lại buổi chiều hôm nào, khi Akari mỉm cười nhìn tôi dưới tán anh đào rực rỡ, giữa những cánh hoa trong gió ngút ngàn.

Đêm hôm đó, tôi và Akari hôn nhau bên gốc cây anh đào. Nụ hôn đầu tiên đến thật tự nhiên. Vào khoảnh khắc môi chạm môi, tôi bỗng hiểu ra ý nghĩa của vĩnh viễn, của trái tim, của linh hồn. Bằng nụ hôn ấy, chúng tôi đã trao nhau tất cả những gì quý giá và trọn vẹn của mười ba năm qua, để rồi giây phút tiếp theo và suốt quãng đời còn lại sẽ là nỗi buồn khôn nguôi đeo đẳng.

Tôi không biết phải làm thế nào để níu giữ hơi ấm trên bờ môi và trong linh hồn này của Akari. Tôi chỉ biết một điều duy nhất, Akari mà tôi yêu quý và trân trọng đang ở đây, bên cạnh tôi. Tôi phải làm gì bây giờ, khi biết rõ rằng chúng tôi không thể ở bên nhau mãi mãi. Những tháng ngày phía trước của chúng tôi còn rất dài và rất xa, tương lai thì mịt mù, vô định.

Những ám ảnh đeo bám tôi ngày ấy rồi cũng phai dần theo năm tháng, nhưng dư vị nụ hôn với Akari thì vẫn còn đọng lại mãi trong tôi. Thế giới mà tôi biết, có lẽ không gì ngọt ngào và ấm áp hơn đôi môi của Akari. Nụ hôn đầu đời thực sự đặc biệt đối với tôi. Ngẫm lại, đó là nụ hôn chất chứa hạnh phúc, thuần khiết và chân thành mà không gì trong cuộc đời tôi, tính cả quá khứ lẫn tương lai, có thể so sánh được.

Đêm hôm đó, chúng tôi ngủ lại ngôi nhà gỗ bỏ hoang ngoài đồng. Ngôi nhà chất đầy nông cụ nhưng may sao tôi và Akari vẫn tìm được một tấm mền cũ để lẫn trong đó. Hai chúng tôi cởϊ áσ khoác và giày đã ướt nhẹp, nhanh chóng lui vào chăn và thao thao về đủ thứ chuyện trên đời. Akari mặc áo váy thủy thủ, tôi mặc đồ nam sinh màu đen. Chúng tôi cùng mặc đồng phục và lần đầu tiên không còn cảm giác cô đơn. Điều này làm tôi hạnh phúc biết nhường nào.

Nằm trong chăn và trò chuyện, thỉnh thoảng vai hai đứa lại chạm nhau, mái tóc mềm mại của Akari mơn man trên má và gáy tôi. Mùi hương dịu ngọt và cảm giác được chạm vào em đôi lúc làm tôi thấy bối rối nhưng đối với tôi, chỉ cần được cảm nhận hơi ấm từ Akari cũng đủ mãn nguyện rồi. Chúng tôi ở gần nhau đến mức, mỗi lời nói, mỗi hơi thở nhẹ từ người này cũng làm lay động mái tóc của người kia. Bên ngoài cửa sổ, tuyết rơi mỏng dần, thỉnh thoảng những hạt bụi tuyết lọt qua khe cửa theo ánh trăng chiếu vào tạo nên một thứ ánh sáng huyền ảo. Chúng tôi ngủ thϊếp đi lúc nào không hay.

Lúc tỉnh dậy là 6 giờ sáng, ngoài trời tuyết đã ngừng rơi. Hai đứa uống nốt phần trà còn lại trong bình giữ nhiệt, sau đó mặc áo khoác và đi bộ ra ga. Bầu trời trong xanh không một gợn mây. Mặt trời vừa ló dạng trên đỉnh núi phía xa kia, nắng tỏa xuống cánh đồng phủ trắng tuyết làm sáng bừng cả một khoảng không gian. Nơi nơi tràn ngập ánh ban mai.

Ga tàu sáng thứ Bảy vắng tanh, chỉ có tôi là hành khách duy nhất. Nắng sớm chiếu lên thân tàu sơn màu cam và xanh lá cây, làm đường ray tuyến Ryomo bỗng bừng lên rực rỡ. Con tàu đã tiến vào. Cánh cửa mở ra, tôi vừa bước lên tàu vừa ngoái đầu nhìn Akari, em đứng một mình trên sân ga. Akari của tôi mười ba tuổi, dáng người mảnh khảnh trong chiếc áo choàng màu trắng, hàng khuy phía trước không cài để lộ bộ đồng phục thủy thủ.

Phải rồi, bây giờ tôi mới ý thức được việc chúng tôi sắp phải xa lìa nhau, mỗi người chỉ còn lại một mình và mỗi người đi theo một hướng.

Chỉ mấy phút trước thôi, chúng tôi còn nói với nhau bao điều, cảm giác gần gũi là thế, vậy mà giây phút chia tay đến quá nhanh. Tôi không biết phải nói gì lúc này, chỉ lặng im nhìn để rốt cuộc, Akari là người lên tiếng.

“Takaki à…”

“Ừ,” tôi lí nhí đáp, giọng như hụt hơi.

“Takaki à,” một lần nữa Akari gọi tên tôi, mắt nhìn xuống vẻ e thẹn. Lớp tuyết trắng sau lưng em đón nắng chiếu vào, lấp loáng như mặt hồ. Khung cảnh đó ôm trọn Akari khiến tôi muốn thốt lên: Đẹp tuyệt! Rồi bất chợt Akari ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào mắt tôi và dõng dạc nói. Hãy vào truyenhdx.com để đọc truyện nhanh hơn!

“Takaki à, tớ tin mọi chuyện sẽ tốt đẹp thôi. Nhất định thế!”

“Cảm ơn…” Ngay sau câu trả lời của tôi, cánh cửa bắt đầu khép lại. Không được… Tôi còn rất nhiều, rất nhiều điều muốn nói với Akari. Tôi hét lên thật to, để qua lớp cửa kính em vẫn có thể nghe thấy. “Akari, giữ gìn sức khỏe nhé. Tớ sẽ viết thư cho cậu. Sẽ gọi điện nữa.”

Khoảnh khắc đó, tôi có cảm giác giọng nói của mình như tiếng chim kêu thảm thiết giữa bầu trời cao và xa vời vợi. Đoàn tàu bắt đầu lăn bánh, tay phải của chúng tôi kịp chồng lên nhau, qua lớp cửa kính và ngay sau đó đã phải lìa xa. Nhưng tôi biết chắc một điều rằng, bàn tay của chúng tôi đã chạm được vào nhau, dù chỉ là một khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi.

Suốt quãng đường về, tôi đứng trước cửa kính và nhìn ra bên ngoài. Tôi đã không nói với Akari về lá thư rất dài tôi viết cho em, về việc tôi đánh mất nó như thế nào. Phải rồi, bởi vì chắc chắn chúng tôi sẽ còn gặp lại, bởi vì trước và sau nụ hôn đầu tiên của chúng tôi, thế giới có điều gì đó đã thay đổi.

Tôi cứ đứng trước cửa kính, đặt tay phải của tôi lên nơi bàn tay Akari đã chạm vào.

“Takaki à, tớ tin mọi chuyện sẽ tốt đẹp.” Đó là lời nói cuối cùng của Akari.

Em muốn ám chỉ điều gì? Dù không hiểu lắm nhưng tôi có cảm giác rất lạ. Một điều mơ hồ mách bảo tôi rằng lời nói ấy của Akari, đến một lúc nào đó, dù ở tương lai rất xa, sẽ là nguồn động lực vô cùng quý giá với tôi.

Nhưng ở thì hiện tại, điều mà tôi khao khát nhất lúc này là sức mạnh để bảo vệ Akari. Tôi vừa suy nghĩ miên man về nó, vừa trân trân nhìn khung cảnh trôi qua bên ngoài cửa sổ.