Chương 14

Anna và James đang lấp những khe hở của ngôi nhà. Họ đi hết chuyến này đến chuyến khác để vận chuyển đất sét và trộn đất sét với cỏ trên thảo nguyên, rồi dùng để lấp khe hở giữa những khúc gỗ. Thảo nguyên vì thế mà bị đào xới trông thật nham nhở và lởm chởm. Trong khi đó, Karl tiếp tục làm việc trên mái nhà, sử dụng những sợi dây liễu nhỏ hơn cho lớp đầu tiên. Chúng được xếp dốc xuống phía dưới theo những lớp đã được khoan từ trước, được cố định lại bằng những khúc cây nhỏ.

Vì Karl đã chủ động đặt câu hỏi về Saul, mỗi buổi tối đi ngủ của họ giờ đây không còn những trò đùa vui để xóa tan nỗi cô đơn trong anh và sự vất vả của công việc ban ngày cũng vì thế mà không thể nhẹ nhàng hơn chút nào. James đã nhận ra khoảng cách giữa chị mình và anh rể, cậu cũng chịu đựng lây sự căng thẳng giữa hai người họ. Cậu ước ao lại được nằm trên chiếc giường của mình, lắng nghe tiếng thì thầm của họ, tiếng cười nói và ngay cả tiếng vỏ ngô cọ xát vào nhau một cách bí ẩn.

Nằm thao thức bên cạnh Karl, Anna cảm thấy anh đang quay người đi và giả vờ ngủ. Cô khóc thầm, những giọt nước mắt đã làm bạn đồng hành cùng mình hàng đêm, nhưng cố nuốt chúng vào trong và nén tiếng nức nở lại cho đến khi hơi thở của Karl trở nên sâu hơn và thậm chí anh đã chìm vào giấc ngủ. Chỉ sau khi đó, những giọt nước mắt của cô mới lăn dài trên má, đọng lại thành vũng trong lỗ tai trước khi trào ra ngoài làm ướt đẫm chiếc gối cô đang nằm, cho đến khi cô tuyệt vọng úp mặt, vùi đầu mình vào trong gối, để cho những tiếng nức nở dâng trào.

Phía sau cô, Karl vẫn chưa ngủ, anh muốn đưa tay vuốt ve Anna mà anh đã từng biết. Nhưng lòng tự trọng kiên định của một người Thụy Điển rứngĂncản và làm tổn thương anh.

Karl không muốn nghĩ đến ngày cắt gỗ để tạo thành rửa ra vào. Anh đã từng nghĩ ngày đó chính là ngày trọng đại nhất – ngày mà Anna, James và anh lần đầu tiên bước vào ngôi nhà của họ. Nhưng giờ đây, cô trông có vẻ rất gầy gò và mệt mỏi với đôi mắt thâm quầng. James luôn giữ im lặng, tâm trạng nặng nề, không biết cư xử ra sao giữa hai người họ. Bản thân Karl luôn hăng say với công việc, điềm tĩnh và lịch sự.

Cái cửa đã được mở ra, đối diện hướng Đông như lời Karl đã hứa. Nhưng khi bước vào nhà lần đầu tiên, những tia nắng mặt trời không thể chiếu sáng và đổ bóng vào trong nhà như họ nghĩ. Những thanh xà ngang dùng để lợp mái đã được đóng và những khe hở hầu như đã bị lấp kín. Chỉ có ánh sáng xuyên qua từ phía cửa ra vào. Anna cảm thấy phía trong căn nhà này thật ảm đạm. Cô kín đáo đứng tránh xa góc nhà nơi cô và Karl đã đứng hôn nhau hoặc vị trí của chiếc giường anh đã chỉ cho cô xem trước đó.

James rất hào hứng với ngôi nhà này, cậu đi vòng quanh khuôn viên nhỏ hẹp của nó và thốt lên, “Tuyệt thật! Nó to gấp ba lần so với ngôi nhà chúng ta đang ở!” .

“Sẽ nhiều hơn gấp ba đấy nếu tính luôn gác xép.”

James nói, “Em chưa từng có phòng riêng của mình”.

“Đã đến lúc chúng ta phải tiếp tục làm việc và ngừng ngay những giấc mơ giữa ban ngày như thế này. Chúng ta còn nhiều việc phải làm trước khi bắt tay xây gác xép. Em đã sẵn sàng đem những viên đá này vào chưa, em trai?”

“Vâng, thưa anh.”

“Tốt! Vậy thì em đi dắt Bene và Bill ra đây, anh sẽ đi cùng với em và chỉ nơi đổ đống đá cho em.”

Với thể trạng như của một người đang hấp hối, Anna bước theo hai người họ, giúp James chất đá lên chiếc xe kẻo mà Karl nói là của mình trong những ngày đông. Karl chỉ cho họ chỗ đống đá nằm ở phía Đông cánh đồng ngũ cốc đã thu hoạch xong, rồi anh quay lại ngôi nhà, bỏ họ lại đó với công việc buổi sáng đầy cực nhọc. Đúng, đó là cảm giác của Anna trong ngày hôm nay: cực nhọc.

Những ý nghĩa đẹp đẽ của buổi sáng đã tan biến theo công việc họ đang làm.

Khi James đem chiếc xe kéo quay trở lại chỗ Anna đang đứng bên đống đá, cả hai người họ đều rất mệt mỏi và ê ẩm mình mẩy.

Cô kéo lê bước chân băng qua sân, đi đến phía cánh cửa của ngôi nhà. Bên trong giờ đây đã sáng sủa hơn vì Karl đã cắt một cái khung để làm lò sưởi.

Cô đứng phía sau anh, anh quay người lại và thấy cô đang nhìn mình chăm chú.

“Anh đang xây lò sưởi, phải không Karl?”, cô hỏi.

“Ừm, ngôi nhà nào cũng cần một cái lò sưởi.”

Còn cô dâu thì phải còn trong trắng, cô nghĩ. Em nói có đúng không, Karl?

Vì vậy, cô phải đâm đầu vào những công việc như nấu ăn, đun nước sôi, xà phòng để giặt quần áo và phải sử dụng cái lò sười này suết cả cuộc đời sao? Và rồi Karl, người thù dai này, có thể sẽ đối xử tốt với cô hơn. Cô muốn khóc, đừng làm vậy với em mà, Karl! Em không được lựa chọn, em xin lỗi anh… xin lỗi anh mà Karl!

Karl, với trái tim như muốn vỡ tung, vẫn tiếp tục công việc chặt gỗ và nhớ lại anh đã tưởng tượng công việc xây lò sưởi này vui và ý nghĩa biết bao nhiêu. Anh đã mơ đến giây phút được đem Anna của anh đến bên nó trong mùa đông lạnh giá và thắp ngọn lửa bừng sáng lên, anh sẽ vui đùa cùng cô, ôm cô vào lòng, cuộn tròn cô lại trong chiếc chăn nhồi cỏ trâu ấm áp, và họ sẽ ngủ bên nhau không một chút suy tư trên chỉnh sàn nhà này.

Những viên đá xây lò sười đã được chất cao lên, từng viên một.

Thời gian trôi qua và Karl thông báo rằng họ phải quay trở lại để kiểm tra những cây hốt bố dại. “Anh nghĩ chúng ta nên đi kiểm tra những cây hốt bố dại. Nếu muốn ăn bánh mì vào mùa đông sắp đến, chúng ta nên đi ngay bây giờ”, anh nói điều đó với James. Anh rất ít khi nói với Anna, và dù có nói gì đi nữa, anh luôn tỏ vẻ lịch sự. Nhưng sự lịch sự đó không phải là những điều Anna mong muốn. Cô muốn Karl trêu chọc tán tỉnh cô, lớn tiếng với cô về tài nấu nướng thảm họa của cô. Bây giờ, tuy việc nướng của cô chẳng tốt hơn trước đây là mấy nhưng anh không thèm đếm xỉa đến nó, chỉ điềm tĩnh ngồi ăn, ăn xong lại đứng lêm xách rìu và súng đi ra khỏi bàn. Anh vẫn tiếp tục chỉ dạy cho cô những công việc cô chưa biết làm, nhưng những trò trêu đùa và vui vẻ đã biến mất khỏi những bài học đó.

“Em có nên dắt Bene và Bin theo không?”, James hỏi với vẻ hớn hở. Những ngày này, cậu luôn cố gắng làm những việc có thể để mong thấy Karl cười, nhưng điều đó đã không xảy ra.

“Có đấy! Chúng ta sẽ đi ngay sau khi em lấy sữa của con Nanna xong.”

Đến lúc họ đi, Anna cảm thấy họ không chỉ đơn giản là kéo xe kéo chứa vật liệu xây dựng qua sân. Lần đầu tiên, những con ngựa được chỉ định đi về phía con đường mà lúc trước cô đã đến. Cô bước vào phía trong cửa ra vào, đứng nép mình trong bóng tôi để Karl không nhìn thấy mình. Cô tự hỏi họ đang đi đâu? Đột nhiên, cô cảm thấy sợ họ sẽ bỏ lại cô một mình ở đây vì không ai ngó ngàng đến cô cả. Karl lấy những cái rổ đựng những sợi liễu và bỏ chúng lên phía sau xe. Cô thấy anh nhìn qua James trong khi cậu bé phi nước kiệu về phía ngôi nhà cũ. Anna bị bỏ lại phía sau cánh cửa.

“Karl nói đã đến lúc đi kiểm tra những cây hất bố dại. Anh ấy hỏi chị có muốn đi không?”

Trái tim cô hát vang và cô muốn khóc, cả hai thái cực xảy ra cùng một lúc. Anh không có ý định bỏ cô lại nhưng anh cũng không định đích thân đến mời cô đi chung. Cô bỏ cái gàu vào trong một cái thùng và đi theo James, lưỡng lự khá lâu trước khi đóng cửa lại. Khi cô đến bên chiếc xe, Kall đã ngồi trên xe. Anh quay lại liếc nhìn ngôi nhà vàAnna hy vọng anh sẽ đưa tay xuống, giúp cô trèo lên, nhưng anh không làm vậy. Thay vào đó, khi cô đang trèo lên phía bên này của xe, anh trèo xuống phía bên kia của xe, đi về phía đống gỗ, lấy một cây gỗ to và chặn ngay trước cửa nhà.

“Tại sao anh không nhắc nhở em, Karl?”, cô hỏi, tự nhủ bản thân mình có thể học hỏi để trở thành một người vợ như anh ấy cần không? Thậm chí, cô còn không nhớ nổi việc đơn giản mà lấy một khúc gỗ chặn trước cửa nhà trước khi đi ra ngoài.

“Không sao đâu!”, anh nói.

Cô buồn rầu nghĩ tại sao không sao chứ? Có điều gì để anh bận tâm về em không, Karl?

Vào thời điểm này, những cây hốt bổ trong rừng đã chín. Những cành cây trĩu nặng như những sợi tóc, đang cố gắng giúp thân cây chống đỡ và nâng những quả hốt bố lên. Hai sợi dây xoắn ngược chiều nhau theo một cách đặc biệt lên phía trên thân cây, Karl giải thích rằng đây là cách để nhận biết nó. Những bông hoa nửa vàng nửa xanh, lá khô héo đi, giòn mỏng như giấy, bết dính, mang những hạt cứng màu tím. Họ hái tất cả những quả chín, đựng đầy trong rõ cho đến khi thấy đủ hoặc thừa những gì họ cần.

“Chúng ta sẽ phải ăn bánh mì trong suốt mùa đông này, chỉ mới nhìn chúng thôi là em đã biết vậy rồi”, Anna nói.

“Anh sẽ bán những quả bốt bố còn lại. Chúng đem lại cho chúng ta một ít tiền”, Karl giải thích.

“Ở thành phố Long Prairie này à?”, cô hỏi.

“Đúng, ở thành phố Long Praine này”, anh trả lời, không cho cô biết thêm thông tin gì khi chuẩn bị quay trở về.

Khi số rổ họ mang theo đã chất đầy quả hốt bố và cả ba người đã sẵn sàng khởi hành, Anna cúi xuống, định chạm vào một chồi non mới nhú, mọc bên cạnh cây mẹ. Karl gọi cây con này là “một nhánh dây leo”.

“Karl! Vì chỗ nhà anh không có cây hốt bố, sao chúng ta không đem cành về và trông chúng ở đó?”

“Anh đã từng thử qua cách này nhưng chúng không sống được.”

“Sao chúng ta không thử lại?”

“Chúng ta có thể thử lại nếu em muốn, nhưng anh không có đem theo vật dụng nào để đào chúng lên.”

“Còn cái rìu của anh thì sao? Chúng ta không thể đào đất bằng rìu à?”

Biểu cảm trên khuôn mặt Karl trông thật kinh hoàng. “Với cái rìu của anh sao?”, giọng anh nghe rất hoảng hốt khi nghĩ đến việc phải sử dụng chiếc rìu quý báu này để đào xuống mặt đất lởm chởm kia. “Không có ai sẵn lòng lấy rìu của mình để đào xuống đất cả. Rìu dùng để chặt gỗ.”

Cảm thấy mình thật ngu ngốc, cô nhìn xuống những nhánh dây leo và nói “Ồ!” bằng một tiếng kêu nho nhỏ. Nhưng cô quỳ xuống, nhất quyết phải nhổ một cây lên cho bằng được.

Cảm thấy ngạc nhiên, anh quỳ xuống bên cạnh cô, họ cùng nhau đào đất lên, cố gắng tìm đến vị trí của rễ cây. Đây là lần gần gũi nhất trong những ngày làm việc này của họ, và tay của họ chạm vào nhau, vừa đào sâu vừa cào đất xung quanh rễ cây. Anna cảm thấy tuyệt vọng trong nỗ lực để làm Karl vui lòng dù chỉ bằng một việc nhỏ thôi. Nếu cây được trồng và phát triển, cô biết đây sẽ là món quà dành cho Karl.

“Em sẽ tưới cây mỗi ngày”, cô hứa.

Anh nhìn lên, thấy cô đang quỳ dưới đất với lời hứa chân thành trong mắt.

Sau đó, anh nhìn ra chỗ khác và nói, “Chúng ta nên dùng rêu để gói cái rễ này lại, nếu không nó sẽ bị khô trước khi chúng ta về đến nhà”. Anh đi tìm rêu, bỏ lại Anna cùng với lời hứa đang hấp hối trong mắt và trái tim của mình.

James quay lại sau khi đem những rổ cây hốt bố lên xe. “Chị có đào được cây nào chưa?”

“Có, Karl đang giúp chị.”

“Có thể chị cũng không trồng được vì anh Karl đã không thể”, James đáp lời.

Sự vô tâm của James làm Anna muốn khóc. Nhưng em mình đúng, cô nghĩ.

Song ý nghĩ đó nhanh chóng bị gạt đi khi cô nhận ra James đã quá tôn thờ Karl mà không chịu bỏ chút thời gian ra để suy nghĩ, quan tâm, ủng hộ cô như trước đây cậu từng làm.

Karl quay lại với bó rêu, quấn nó quanh rễ cây, sau đó, đứng lên và nói, “Tốt hơn là nên lấy hai cây, Anna”.

“Hai cây sao?”

“Ừm.” Anh đã quá quen với cách biểu lộ sự ngạc nhiên của cô. “Cây hốt bố chỉ phát triển tốt nhất khi có hai cây, cây đực và cây cái. Cây em vừa nhổ lên là cây cái, nhưng nếu em nhổ thêm một cây đực nữa thì em sẽ thu hoạch được nhiều hơn khi cây lớn.”

“Làm sao anh biết đây là cây cái?”, cô hỏi.

Anh nhìn cô trong giây lát rồi bước đến gần, chỉ cô xem những chóp hình nón còn lại phía trên cây mẹ. “Bằng những cái chóp này”, anh giải thích. Anh đưa tay chạm vào chúng. “Cây cái ngắn hơn, chỉ khoảng năm centimet.” Anh bước lại gần một cây khác, với tay hái một chùm hoa hình chùy trên thân cây. Nó dài khoảng mười lăm centimet. “Cây đực dài hơn rất nhiều.” Anh nhanh chóng quay đi, hái thêm một rổ quả hốt bố nữa, để cô một mình đào cây đực lên nếu như cô muốn thế.

Kiên quyết, cô đào thêm một cây nữa và bỏ nó lên xe, cẩn trọng không nhìn vào mắt Karl. Cô quấn nó vào trong đống rêu cùng với cây cái trong khi Karl kiên nhẫn đứng chờ cô trèo lên xe. Quỷ tha ma bắt, làm sao cô ấy có thể trồng chúng được!

Khi họ đã đi được nửa đoạn đường, Karl kéo xe ngựa dừng lại. “Anh vừa nảy ra ý định sẽ lấy gỗ cây bách hương về làm ván lợp”, anh thông báo. “Mặc dù những cây này không phải của anh nhưng anh nghĩ khu đất này không thuộc quyền sở hữu của bất kỳ ai, nên anh không lấy gỗ của người khác. Chỉ cần một cây cũng đủ lợp ván cho cả ngôi nhà và anh sẽ đi chặt nó.”

Đối với Anna, cây cối ở đây đều giống nhau. Nhưng khi Karl bắt đầu chặt cây, cô ngửi được một mùi thơm. Mùi hương của cây bách hương rất nồng và cô nghĩ một người nào đó có thể bị say vì mùi hương này. Cô lại được chiêm ngưỡng vẻ đẹp và sự uyển chuyển của cơ thể Karl khi anh cầm rìu. Cô không thấy anh biểu lộ cảm xúc từ khi họ trở nên xa cách. Nhưng hình ảnh này giờ đây khiến cô rung động, trong lòng cô dấy lên một niềm khao khát, cô mong rằng rạn nứt giữa anh và cô có thể được hàn gắn lại.

Đột nhiên, cô thấy Karl đang giảm dần tốc độ, nhịp điệu cũng thay đổi theo, anh chưa bao giờ làm vậy!

Anh chặt thêm hai nhát nữa, mỗi một nhát đều vang dội khắp nơi. Nhưng khi anh dừng tay, âm thanh vang dội vẫn còn. Anh đứng yên dò xét như một con gà trống đang đứng trước một con gà mái. Anh quay đầu lại, có vẻ như đã nghe thấy tiếng động nào đó, hình như là tiếng chặt cây ở hướng Bắc.

Anna và James cũng nghe thấy tiếng động đó và họ phòng thủ.

“Hai người có nghe thấy không?”, Karl hỏi.

“Chỉ là tiếng rìu thôi”, James nói.

“Chỉ là tiếng rìu hả em trai? Chỉ là tiếng rìu sao! Em có biết điều này nghĩa là sao không?”

“Hàng xóm?” James mạo hiểm trả lời, một nụ cười lướt ngang môi cậu.

“Hàng xóm”, Karl nhắc lại, “nếu như chúng ta may mắn”.

Đó là một nụ cười thật sự mà Anna nhìn thấy trên khuôn mặt Karl trong suốt mấy ngày qua. Anh thu rìu lại, lần này, anh cố gắng suy đoán từng nhịp của âm thanh, không vội vã, như một người đang chầm chậm chạy trên con đường dài.

Âm thanh đó đột nhiên ngưng lại. Cả ba người họ hình dung ra một người mà họ chưa bao giờ gặp, anh ta có lẽ cũng đang ngừng tay để lắng nghe tiếng rìu của Karl trong khu rừng của mình.

Nhịp điệu xa xa lại vang lên, nhưng lần này nó ở phía sau, hoặc ở gần cái cây Karl đang chặt, và hai người họ đang nói chuyện với nhau bằng một ngôn ngữ mà chỉ có những người đốn gỗ trong rừng mới hiểu được. Họ đo đạc khoảng cách theo một giọng điệu rất quen thuộc, hỏi và trả lời lẫn nhau.

Cạch! Tiếng rìu của Karl vang lên.

Cọc! Tiếng rìu đáp trả.

Cạch!

Cọc!

Cạch!

Cọc!

Cuộc đối thoại như những tiếng trống gõ, và lúc này, Karl làm việc với nụ cười nở trên môi. Khi anh bước lui về sau để nhìn cây đổ xuống, Anna cảm thấy rất phấn khởi như thể lần đầu tiên cô chứng kiến cảnh tượng này.

Sự hớn hở của Karl cũng lây sang cô. Khi tiếng động của cây đổ xuống dội vào tai họ, ánh mắt anh liếc sang cô như lúc trước. Anh thấy cô cười rạng rỡ trong khi một mùi thơm thầm lặng tỏa ra, anh không thể không nhìn cô và cười lại.

Trong không gian im lặng, tiếng rìu của người thợ đốn gỗ kia lại vang lên.

“Họ đang nghe chúng ta!”, James nói.

“Lấy rổ lại đây để đựng vụn gỗ”, Karl nói, “trong khi anh cắt cây ra. Vụn gỗ bách hương rất tốt để xua đuổi bọ. Bỏ một ít vào thân cây sẽ giúp chúng không bị mọt. Nhanh lên nào”.

Cô chưa từng, chưa bao giờ thấy Karl Lindstrom vội vã. Nhưng anh đang vội vã. Cô cũng đang vội vã. Trong khi cô gom vụn gỗ lại, Karl lại làm cô ngạc nhiên, “Thử ngậm một miếng gỗ xem”.

Cô làm theo. James cũng vậy. “Nó có vị ngọt!”, Anna thốt lên với vẻ ngạc nhiên.

“Đúng, rất ngọt là đằng khác”, Karl đồng ý, nhưng anh đang nghĩ đến âm thanh ngọt ngào của tiếng rìu từ phía xa xa. Cần chút ít thời gian để tìm ra nguồn gốc của âm thanh đó.

Một con đường có hai hàng cây phỉ chạy dọc hai bên, dường như đã bị che khuất khi họ đi ngang qua lúc trước. Bây giờ, khi họ đi lại từ phía sau, hàng cây đã hiện ra một cách rõ ràng. Họ bị lôi cuốn bởi âm thanh tiếng rìu ngày một gần hơn, giống như một thỏi sắt đang bị nam châm hút.

Họ gặp một người đàn ông mập lùn, tuổi trung niên đang đứng bên một cây thông Mỹ dọc theo con đường. Họ cho xe dừng lại trong khi người đàn ông kia cũng gác rìu lên tay, đứng nghỉ ngơi, giống cách Karl thường làm sau khi đã chặt cây xong. Ông ta lấy chiếc mũ len xuống, chiếc mũ giống với chiếc mũ của Karl. Sau đó, ông ta nhìn Anna, cầm chiếc mũ trên tay và đi về phía xe của họ.

Một mình Karl bước xuống, đi về phía người đàn ông với lòng bàn tay mở ra. “Tôi nghe thấy tiếng rìu của ông.”

“À, tôi cũng nghe thấy tiếng rìu của anh!”

Họ bắt tay nhau.

Người Thụy Điển! Karl nghĩ.

Người Thụy Điển! Olaf Johansons nghĩ.

“Tôi là Karl Lindstrom.”

“Còn tôi là Olaf Johansons.”

“Tôi sống cách đây khoảng sáu đến tám dặm về hướng này.”

“Còn tôi sống cách đây cả trăm dặm về hướng này.”

Anna sửng sốt nhìn họ chào hỏi nhau và cả sự trùng hợp kỳ lạ khi hai người Thụy Điển lại gặp nhau trong một khoảng cách gần đến vậy. Họ cười với nhau, chạm vai nhau, hai bàn tay siết chặt khiến Anna dâng lên niềm hạnh phúc vì cô biết Karl nhớ quê nhà đến nhường nào.

“Ông định cư ở đây luôn à?”

“Vâng, tôi và gia đình của tôi.”

“Tôi cũng nghe những tiếng rìu khác nữa.” Karl tìm ra hướng của âm thanh đó.

“Vâng. Tôi và các con trai của tôi đang chặt cây để xây nhà.”

Chất giọng Thụy Điển của Johansons khó nghe hơn giọng của Karl.

“Chúng tôi cũng đang xây nhà. Đây… đây là gia đình của tôi.” Karl nhìn sang phía xe kéo. “Đây là vợ tôi, Anna, và đây là em trai của tôi, James.”

Ông Olaf Johansons, tay vẫn cầm chắc mũ, gật đầu liên tục, tiến đến bắt tay họ trước khi đội mũ lên trở lại.

“Ồ! Katrene của tôi hẳn sẽ rất vui khi gặp mọi người! Cô ấy và các con gái của chúng tôi, Kerstin và Nedda, thường hay nói 'Nếu như ở đây không có láng giềng hay bạn bè thì sao?' Họ nghĩ họ sẽ chết vì cô đơn, cả ba người họ. Làm sao một người có thể chết vì cô đơn trong một gia đình đông đúc như gia đình của tôi được chứ?” Ông kết thúc câu nói với một tiếng cười hài lòng.

“Gia đình của ông đông lắm sao?”, Karl hỏi.

“Vâng tôi có ba người con trai đã trưởng thành và hai cô con gái tuổi mới lớn, nhưng khá phổng phao và xinh đẹp. Chắc chắn, gia đình tôi cần một căn nhà to.”

Karl cười, vui đến phát cuồng trước tin tức đó.

“Đến đây nào, anh phải gặp Katrene và tụi nhỏ. Họ sẽ không thể nào tin nổi tôi đem ai về nhà ăn tối đâu!”

“Ông sẽ lên xe đi cùng chúng tôi chứ!”

“Ch.. chắc rồi!” Johansons đồng ý, trèo lên xe chỗ cây bách hương. “Đợi đến khi họ gặp mọi người nhé! Họ sẽ nghĩ rằng mình đang mơ cho mà xem!”

Karl lại cười. “Chúng tôi chặt cây bách hương để làm ván lợp, nhưng tôi nghĩ rằng khu đất này là của ông. Tôi không biết ông đã ở đây, đáng lẽ, tôi phải xin phép ông trước.”

“Tôi hỏi anh điều này nhé, một cây bách hương so với khu rừng xung quanh đây thì có đáng không?”, Olaf xởi lởi. “Không đáng đâu mà!” Tay ông ta lướt qua, chỉ về phía khu rừng. “Mảnh đất Minnesota này là một vùng đất tốt. Nó rất giống ở Thụy Điển.”

“Tôi nghĩ có lẽ còn tốt hơn. Tôi chưa từng thấy những cây thông Mỹ như thế này.”

“Chúng tạo thành những bức tường rất thẳng hàng, đúng không nào?”, Karl đồng ý.

Khi họ đến một khu đất trống nhỏ hẹp, nơi mà những tiếng rìu vẫn còn vang lên, hai người đàn ông này như đã cảm thấy rất tự đắc. Có một chiếc xe thồ phủ bạc ở trên bãi đất trống, rõ ràng, gia đình này sống nhờ vào nó từ lúc họ đến đây. Đồ dùng gia đình nằm vương vãi khắp nơi quanh đống lửa đang nhóm, một cái chuồng nhỏ được tạo nên bằng cách đặt bàn ghế theo hình vòng tròn để nhốt các loại động vật. Những khúc cây, các phần của những chiếc giường và quần áo vứt tứ tung trên nền đất, phủ lên bánh xe thồ hoặc trải trên những bụi cây.

Một người phụ nữ đang khuấy chiếc nồi treo trên một cây trụ có ba chân, đặt tên một ngọn lửa. Một người khác đang trèo xuống phía sau chiếc xe thồ phủ bạt. Một cô gái trạc tuổi James đang phân loại những quả việt quất. Ngay góc của khu đất, ba tấm lưng lực lưỡng đang vung rìu. Mọi người có vẻ dừng tay lại cùng một lúc. Olaf vẫy tay gọi và họ cùng từ phía góc xa xa kia bước đến chỗ chiếc xe kéo khi nó dừng lại.

“Katrene, xem anh tìm thấy gì cho em nào”, Olaf gọi, trèo xuống tìm phía sau chiếc xe.

“Hàng xóm!”

“Hàng xóm!”, người phụ nữ thốt lên, lau tay vào trong một chiếc khăn to.

“Hàng xóm người Thụy Điển!”, Olaf hét to thêm lần nữa, như thể ông chịu trách nhiệm về việc xác định quốc tịch của người khác vậy.

Lúc này, khoảng đất trống chỉ toàn người Thụy Điển đang đứng. Mọi người dường như đều “à” và “ờ” lên cùng lúc, tất cả bọn họ, ngoại trừ Anna và James. Cuối cùng, Karl cũng phá vỡ bầu không khí xa lạ đó, anh hớn hở đi đến bắt tay từng người và giúp Anna trèo xuống xe.

“Đây là vợ tôi, Anna”, anh nói, “nhưng cô ấy không biết nói tiếng Thụy Điển”.

Một âm thanh của sự tiếc nuối vang lên, cứ như có ai đó đang ngất đi.

“Còn đây là em trai cô ấy, James.”

Mặc dù được chào đón nồng nhiệt nhưng Anna cảm thấy khó chịu khi họ cứ xen vào thứ tiếng mà cô không hiểu gì cả. Nhưng khi nói chuyện với cô và James, họ sử dụng tiếng Anh. “Mọi người hãy ở lại đây và ăn tối với gia đình chúng tôi. Có rất nhiều món cho tất cả chúng ta đấy!”

“Cám ơn”, Anna đáp lại.

Olaf giới thiệu đàn gia súc của mình, từ con già nhất đến con non nhất.

Katrene, vợ ông ta, là một người phụ nữ đẫy đà, luôn cười vui vẻ với những gì mình đang nói. Bà ta rất giống với những gì Anna hình dung về mẹ của Karl, từ sự miêu tả của anh về mẹ mình trong quá khứ. Katrene có mái tóc thắt bím, đeo tạp dề, gò má tròn và ửng hồng, mũm mĩm, đôi mắt biết nói và luôn sáng long lanh.

Erik, người con trai cả của họ, trạc tuổi Karl. Thật ra, nhìn anh ta rất giống Karl nhưng thấp hơn và không điển trai bằng.

Kerstin, người con gái lớn của họ, đang bước đến gần. Cô ta giống mẹ như đúc.

Sau đó là Leif và Charles, hai chàng trai trẻ tuổi, khoảng độ mười sáu đến đôi mươi.

Cuối cùng là Nedda, mười bốn tuổi, người đã làm cho giọng của James chuyển tông cao và thanh khi cậu nói xin chào với cô.

Anna chưa bao giờ nghĩ trong cuộc đời mình, cô lại gặp nhiều người Thụy Điển đến như vậy. Má hồng, khỏe khoắn, cơ thể rắn chắc, ngay cả những người phụ nữ. Tất cả bọn họ đều có mái tóc vàng, họ gật đầu, ra hiệu cho những vị khách đến bên ngọn lửa và ngồi xuống những khúc gỗ mà họ dùng làm ghế ngồi.

Họ hào hứng trao đổi với Karl những tin tức về Thụy Điển, anh cũng trao đổi lại với họ chút ít thông tin về Minnesota. Khi cuộc trò chuyện đến hồi rôm rả, Anna và James như bị bỏ rơi, hai người họ cứ phải lắng nghe những cụm từ mà họ không tài nào hiểu được, nhưng vẫn buộc phải cười vui vẻ trước sự nhiệt tình của mọi người ở đây. Cô liếc mắt nhìn những người tóc vàng đang ngồi xung quanh. Một người nhìn thấy Anna đang nhìn họ, cô cảm thấy tóc mình đang bay trong gió, lòa xòa trước trán và rối tung rối mù.

Người con gái lớn, Kerstin, khuấy thức ăn đang chín tới trong một cái nồi to bằng sắt phía trước mặt họ. Từ phía sau, Anna nhìn những lọn tóc thắt bím xinh đẹp và bám chặt vào da đầu của Kerstin, chúng trông có vẻ quá chặt. Những lọn tóc đó vòng quanh đầu và kết thúc với một vòng hoa kiểu của nữ thần La Mã, tạo thành một vòng tròn rất đẹp phía sau đầu cô ta. Kerstin mặc một chiếc váy đầm được may tỉ mỉ, sạch sẽ gọn gàng và đeo một chiếc tạp dề mà cô giữ gìn nó khỏi bị lửa bén vào khi nghiêng người để khuấy nồi thức ăn đang tỏa mùi thơm ngào ngạt.

Anna, trong chiếc quần ống túm của em trai, chợt cảm thấy mình như một thằng con trai. Cô giấu bàn tay phía sau lưng. Chúng bị dính đầy đất cát khi cô đào những cây hốt bố lên. Còn hai bàn tay của Kerstin thì sạch sẽ như chiếc đầm cô ta đang mặc vậy. Cô ta di chuyển rất thuần thục quanh ngọn lửa, biết rõ mình phải làm gì với món ăn này.

Khi bữa ăn được dọn ra, theo lẽ thường, Anna sẽ đoán trước. Có bánh mì đặc ruột của Thụy Điển mà Karl lúc nào cũng thèm nhỏ dãi. Đó là bánh mì lúa mạch đen ẩm ướt của người Thụy Điển. Sau đó, họ cầu nguyện. Có cả bơ, bơ thật sự, bởi vì Johansons có mấy con bò. Món thị thầm còn có thêm những cây xúc xích ngon tuyệt mà Anna chưa bao giờ được nếm thử, và dù bà Katrene nói rằng chúng được làm từ thịt nai thì Anna cũng chưa từng nếm thử thứ thịt nai nào ngon đến thế. Nó cay, giàu đạm và có nhiều gia vị. Họ cũng có lúa mạch nấu với nước thịt hầm và một chiếc bánh ga tô hấp, phủ trên mặt những quả việt quất và kem tươi.

Karl ăn ngấu nghiến đĩa bánh thứ hai khi Katrene tủm tỉm nhìn anh cười và hỏi, “Anh thích món bánh chứ, Karl?”.

Bà đã gọi anh là Karl thay vì anh Lindstrom!

“Kerstin, con bé làm món bánh đó đấy. Nó nấu được một vài món, Kerstin đấy”, bà Ketrene ngâm nga.

Anna cố gắng tạo ra một nụ cười trên môi.

Karl gật đầu theo hướng bà Ketrene chỉ, thán phục tài năng của cô ta một cách lịch sự và lại tiếp tục ăn bánh. Karl không biết đáp trả lại thế nào nên anh chia sẻ một ít quả hốt bố cho gia đình Johansons. Anh đưa cho bà Ketrene cả một túi to.

Khi bữa tối đã xong và ba người phụ nữ của gia đình Johansons bắt đầu đi rửa bát đĩa, Anna ngỏ ý giúp đỡ nhưng họ từ chối, họ bảo cô là khách nên không cần phải làm thế. Hôm nay, họ chỉ trò chuyện cùng nhau. Chẳng nghi ngờ gì rằng Karl sẽ không từ chối bất cứ lời nhờ vả nào của họ. Ngày hôm nay, họ sẽ nghỉ ngơi. Nhưng ngày hôm sau, tất nhiên anh sẽ bắt tay vào giúp đỡ họ. Mọi người đều đồng ý rằng khi lợp mái nhà xong, ngôi nhà phải trụ thật vững vàng. “Giống như ở Thụy Điển”, họ cùng nói và vui vẻ quyết định sau khi ngôi nhà của gia đình Johansons hoàn tất, họ sẽ tiếp tục phần mái nhà, sàn nhà và gác gỗ cho ngôi nhà của Karl, Anna và James.

Sau khi ăn tối xong, ba người ra về với lời hứa hôm sau sẽ đến sớm để phụ giúp. Bà Katrene vẫy tay tạm biệt họ với đôi má ửng hồng và nụ cười quen thuộc, bà còn nói với theo Karl vài câu nào đó bằng tiếng Thụy Điển.

“Bà ấy nói gì thế?”, Anna hỏi.

“Bà ấy nói rằng ngày mai chúng ta đừng ăn sáng trước khi đến bởi vì bà ấy sẽ làm món bánh kếp Thụy Điển với những quả dâu mà họ đem từ Thụy Điển sang!”

Sự vui sướиɠ trong giọng nói của Karl làm Anna thấy ganh tị, cô không biết phải nói gì. Cũng chẳng ích gì khi James nói thêm vào, “Những người con trai của họ! Em hy vọng họ cũng tốt như chiếc bánh ga tô vậy. Hy vọng thế, phải không anh Karl?”.

“Giống như mẹ anh đã từng làm”, anh nói.

“Họ lấy đâu ra những quả dâu đó?”, James hỏi.

“Chúng có ở khắp nơi. Có một bụi cây dày đặc ở phía Tây Bắc khu đất của chúng ta, nhưng vì chúng ta đã quá bận rộn với công việc xây nhà nên anh chưa lên đó để kiểm tra được. Anh nghĩ chắc chúng đã chín rồi.”

“Chúa ơi, anh Karl này! Chị Anna có thể làm bánh ga tô với những quả dâu đó không?”

“Anh nghĩ nó sẽ không giống đâu vì bánh của họ còn có kem tươi từ những con bò của ông Olaf.” Sau đó, anh thêm vào, “anh quên chưa nói rằng sữa bò ngọt hơn sữa dê”.

“Nếu con Nanna mà nghe anh nói thì nó sẽ không cho chúng ta sữa nữa”, James trêu chọc.

Karl cười. “Ừm. Nanna là một con dê thông minh. Nhưng anh không nghĩ nó thông minh đến vậy đâu.”

“Ngày mai, chúng ta sẽ quay lại đó sao?”, James hỏi với vẻ lo lắng.

“Đúng, tất nhiên rồi. Cũng giống như ở Thụy Điển, mọi người vì mình và mình vì mọi người. Với sự giúp đỡ của chúng ta, gia đình Johansons sẽ xây xong ngôi nhà trong vòng hai hay ba ngày nữa.”

“Hai hay ba ngày sao?”, James thốt lên với vẻ sửng sốt.