Chương 2: Trọng sinh

Đông Châu, trấn Ngọc Hoa.

Lúc ấy là mùa thu, mùa hoa mộc tê nở, những cánh hoa nhỏ màu cam nở rộ rực rỡ xung quanh trên cành, náo nhiệt vui tươi, hương thơm ngào ngạt nức mũi.

Trong ngôi nhà mới lợp mái ngói xanh, Chu Ngỗ Tác thu dọn đồ đạc, rón rén bước ra ngoài, sợ sẽ đánh thức cháu gái ngoan đang say giấc trên giường.

Nào ngờ, trẻ nhỏ nhạy tai, vẫn nghe thấy tiếng động, lăn người đến mép giường rồi trở mình thức dậy.

Bé gái sáu tuổi dụi dụi đôi mắt còn ngái ngủ, hai chùm tóc buộc bằng dải lụa đỏ do ngủ mà nghiêng lệch, trông vừa ngộ nghĩnh vừa đáng yêu.

Khương La vừa mở mắt, ngơ ngác nhìn về phía cửa, nơi Chu Ngỗ Tác đang dừng bước cứng đờ, không dám cử động.

Đôi mắt hạnh xinh đẹp của nàng đột nhiên ngập tràn một tầng sương mờ.

Nàng nhận ra, đó là tổ phụ của mình.

Hôm nay tinh thần của ông rất tốt, sắc mặt hồng hào, cánh tay rắn chắc, hoàn toàn khác hẳn với dáng vẻ tiều tụy bệnh tật trước đây.

Nàng cúi đầu nhìn bàn tay tròn trĩnh, vẫn là dáng vẻ của một đứa trẻ.

Khương La dường như hiểu ra, có lẽ nàng đã trọng sinh.

Nàng đã trở về quá khứ?! Tất cả liệu có cơ hội để làm lại từ đầu chăng?

"Ông ơi!" Khương La cất tiếng gọi, giọng nói non nớt mà mềm mại.

Nàng có rất nhiều điều muốn nói với Chu Ngỗ Tác, nhưng lại không biết bắt đầu từ đâu.

Nàng muốn kể cho ông nghe rằng sau khi ông mất nàng đã vào cung, chịu đựng biết bao cay đắng, không ai đối xử tốt với nàng, không ai thương yêu nàng.

Ban đêm Khương La không dám khóc, sợ người hầu nói ra nói vào, sợ những lời đồn đại này truyền đến cung rồi bị gán tội bất mãn với hoàng tộc, làm liên lụy đến Triệu mama bị phạt.

Nàng thật sự vô cùng ấm ức, mũi cay xè, nước mắt từng giọt từng giọt lăn xuống.

Thấy cháu gái ngoan thút thít, khóc lóc đáng thương khiến Chu Ngỗ Tác đau lòng vô cùng.

Ông vội vã chạy lại, vỗ về lưng nàng: "A La ngoan nào, ông chỉ đi nghiệm thi, sẽ trở về nhanh thôi. Bình thường đưa con đến nha môn không có việc gì, nhưng hôm nay người mất là Trần thúc thúc ở thôn bên cạnh, ông sợ con nhìn thấy sẽ buồn lòng."

Giữa trán Khương La bẩm sinh có một nốt chu sa, như Kim Đồng Ngọc Nữ dưới tòa Quan Âm Bồ Tát, vô cùng đáng yêu. Nhà nào tổ chức hôn lễ cũng đều mời Khương La đến làm tiểu tân nương hay hoa đồng để lấy chút phúc khí.

Trần thúc này mấy ngày trước lúc con trai cưới vợ mới còn gói cho Khương La một túi giấy dầu đầy kẹo bí đao tẩm đường sương, đứa nhỏ về nhà cứ mãi khen Trần thúc tốt bụng. Nếu để nàng thấy xác của người quen, cú sốc đó sẽ lớn đến nhường nào? Nếu bị hù đến rớt hồn, ngọc nữ sớm bị thu về trời, thì Chu Ngỗ Tác có hối hận cũng đã muộn.

Người trong nghề bọn họ đều phạm vào công việc đắc tội với cô hồn dã quỷ, nhiễm phải âm sát, ngay cả cưới vợ cũng khó khăn, mãi mới nuôi được một đứa cháu gái, dù là nhặt về thì ông cũng không muốn Khương La gặp phải bất trắc.

Khương La khóc là vì nhớ người thân, chứ không phải vì muốn theo Chu Ngỗ Tác đến nha môn.

Nàng nín khóc, mỉm cười nói: "Con nghe lời ông mà, con không đi."

"Ừm! Như vậy mới ngoan!"

Chu Ngỗ Tác là người cưng chiều trẻ nhỏ quá độ, hôm qua còn lo Khương La bị sâu răng mà tịch thu kẹo hoa quế của nàng, hôm nay chỉ vì Khương La ngoan ngoãn mà lục tung rương hòm để tìm kẹo dỗ đứa nhỏ.

"Không được ăn nhiều, mỗi ngày nhiều nhất chỉ hai viên thôi." Chu Ngỗ Tác mở gói giấy dầu, nhét kẹo vào miệng đứa nhỏ, "Giờ ông phải đi rồi, con ngoan ngoãn trông nhà. Nếu buồn chán thì sang nhà Vương thẩm bên cạnh chơi, nhớ khóa cửa cẩn thận. À, trong bếp còn mấy cái bánh nướng, ông để lại cả túi đựng bánh, ra ngoài nhớ mang theo, đói thì ăn nhé."

"Vâng, ông đi đường cẩn thận nha."

Vị ngọt béo ngậy trên đầu lưỡi của Khương La làm dịu đi những giọt lệ đang chực trào ra. Nàng xuống đất, ngoan ngoãn tiễn Chu Ngỗ Tác ra khỏi cửa.

Sau khi chống cây chặn cửa xong, Khương La đưa mắt nhìn quanh tiểu viện nàng sống từ thuở nhỏ, vô thức vươn vai một cái. Ánh nắng ấm áp chiếu lên người, xuyên qua lớp áo bông dày mà sưởi ấm tận sâu trong xương cốt, xua tan mọi giá lạnh thấu xương.

Trong sân có đặt một chiếc bàn đá và hai chiếc ghế đá khắc hình mẫu đơn, là phần thưởng mà Chu Ngỗ Tác nhận được từ nhà quan huyện sau khi lập công phá án. Nhờ vậy mà vào những đêm hè, Khương La có thể ngồi cạnh ông ở trong sân, đón gió ngắm trăng, ăn dưa hấu ngọt lịm.

Tiếng bụng đói réo vang, Khương La nhớ đến bánh nướng trong bếp, liền chạy vài bước nhanh vào lấy phần ăn trưa.

Khi thấy cái túi đựng lương thực màu đỏ đã được giặt nhiều lần đến bạc phếch đặt trên bếp, Khương La chợt nhớ ra một chuyện.

Nàng vội cầm lấy cái túi đựng bánh, điên cuồng chạy ra khỏi nhà.

Khương La chợt nhớ đến chuyện của Tô Lưu Phong, hắn từng nói rằng nàng đã tặng hắn một cái bánh.

Cái túi đựng bánh này Khương La mới chỉ dùng đúng một ngày, trên đường về nhà chẳng may làm rơi mất. Chính vì vậy nên nàng mới nhớ mãi chuyện tặng bánh.

Tiên sinh gặp nạn, nàng phải đi cứu hắn.

Trong con hẻm tối ở phố Tây vang lên một trận ẩu đả ầm ĩ.

Tiếng vỡ vụn, tiếng rên đau đớn trầm đυ.c, tiếng đá vào bụng dồn dập, thậm chí có cả âm thanh mơ hồ của xương bị gãy.

Khương La nhận ra đám thiếu niên đang vây đánh cậu bé ăn xin này, chúng là con của các nha dịch trấn Ngọc Hoa, ngày thường chẳng có việc gì làm, dựa vào cha mình làm việc ở nha môn mà ngày ngày trêu mèo ghẹo chó, ngang tàng hống hách.

"Dừng tay!" Khương La tiến tới, chắn trước mặt cậu bé ăn xin đầy vết thương, "Vương Huân, Lưu Mãnh! Các ngươi đánh người giữa đường, cẩn thận ta nói với tổ phụ, để ông bẩm báo với quan huyện, trị tội cha các ngươi!"

Giọng nói ngây thơ của trẻ nhỏ vang vọng trong con hẻm vắng lặng, mấy tên bị gọi tên nhận ra nàng là ai, nhất thời bị dọa đến đứng sững lại.

Khương La thường theo Chu Ngỗ Tác ra vào huyện nha, rất được quan huyện yêu quý. Nếu thật sự bị nàng tố cáo, dù không bị phạt nặng, thì chắc chắn cũng bị người lớn mắng chửi một trận.

Bọn chúng cuối cùng cũng e ngại cái tát từ người cha xuất thân võ nghệ, nhổ một bãi nước bọt: "Chúng ta đi thôi!"

Vừa bước đi được vài bước, Vương Huân quay đầu lại, cười lạnh lùng: "A La! Một tiểu nha đầu như ngươi mà lại đi chung với tên chạy vặt của gánh hát, không thấy mất mặt sao? Nếu tổ phụ ngươi biết, nhất định sẽ đánh cho ngươi một trận."

"Đừng xen vào chuyện của ta, đi ngay! Bằng không, ta sẽ chạy thẳng đến huyện nha bây giờ!"

"Được rồi, được rồi, ta đấu không lại ngươi, lão tử sợ ngươi luôn rồi được chưa? Chúng ta đi." Đám côn đồ vội vàng bỏ chạy.

Đợi đến khi bọn chúng đi xa, Khương La mới quay lại nhìn thiếu niên nằm trên mặt đất. Những vết máu đỏ tươi từ chiếc áo ngắn bằng vải thô rách nát của hắn thấm ra ngoài, vạt áo đầy vết bẩn, ngay cả mái tóc đen nhánh cũng rối bù, vậy mà đôi bàn tay gầy gò kia, móng tay hồng hào, kẽ tay sạch sẽ, như thể mỗi ngày đều dùng nước suối để rửa sạch.

Khương La hiểu, đây là thứ thể diện duy nhất mà Tô Lưu Phong có thể giữ lại cho mình, khi hắn không có nổi một manh áo lành lặn hay một bữa ăn no đủ.

"Tiên sinh."

Nàng không kìm được mà khẽ gọi, lệ đã tràn khóe mi.

Khương La chợt nhớ đến chuyện kiếp trước.

Lần đầu tiên Khương La gặp Tô Lưu Phong, cũng là vào một buổi trưa mùa thu ngát hương hoa quế.

Trong cung hoa cỏ rực rỡ, ngay cả phủ công chúa cũng được trang trí lộng lẫy. Nhưng những loài hoa đó quá quý giá, Khương La không thể gọi tên chúng, nàng chỉ có thể thưởng thức cây hoa quế duy nhất, vì trong vườn của tổ phụ nàng cũng có một cây.

Sau khi được nhận về cung, Khương La đã gầy đi rất nhiều. Những bộ trang phục hoa lệ, lấp lánh châu báu quấn quanh thân hình gầy guộc như những xiềng xích trói buộc tâm hồn của nàng.

Khương La lặng lẽ nhìn chăm chú vào những bông hoa quế chen chúc, cho đến khi một hương hoa khác còn ngào ngạt hơn làm cho nàng chao đảo.

Nàng xoay người quay lại nhìn, phía dưới hành lang, một vị lang quân anh tuấn đĩnh bạt đứng lặng hồi lâu. Hắn một thân y phục xanh lục, trang trí hoa văn cây tùng, gió thổi tà áo bay bay khiến dáng vẻ tựa mây sáng trăng thanh, còn mang theo mùi hương của hoa đào núi.

Chàng thiếu niên cao lớn, thoạt nhìn có phần gầy guộc. Khi hắn tiến lại gần, Khương La nhận ra dáng vẻ thanh tú của hắn - mặc dù là một người trông có vẻ lạnh lùng, nhưng đôi mắt phượng của hắn lại quyến rũ một cách lạ thường, thêm phần khí khái không thể nào mạo phạm.

Hắn lớn hơn Giang La vài tuổi, nhưng đã có khí chất của một văn nhân vững vàng.

Khương La nghe Triệu mama nói qua, hai ngày trước vì nàng ở trong cung dùng bữa mà gây ra trò cười, Hoàng đế đặc biệt tìm cho nàng một vị tiên sinh học vấn uyên bác đến phủ chỉ điểm thi thư.

Vị này chính là Lễ Bộ Hữu Thị Lang Tô Lưu Phong mà nàng đã sớm nghe danh đây sao?

Khương La còn chưa đến tuổi cập kê, thân hình vẫn đang phát triển. Dáng dấp nàng nhỏ bé, chỉ cao đến ngang eo của người ấy.

Khi gặp sư trưởng, Khương La nghiêm cẩn hành lễ: "Ngài là Tô đại nhân? A La xin vấn an ngài. Ta nên xưng hô với ngài thế nào? Gọi một tiếng "tiên sinh" có được không?"

Nàng có quá nhiều câu hỏi, cứ thế mà tuôn ra một tràng dài.

Nói xong, Khương La hơi ngượng ngùng cười, khẽ chạm vào chóp mũi: "Ở quê nhà của ta, mọi người đều gọi những người tài cao học rộng là "tiên sinh". Ta không biết khi đến kinh thành, có phải nên gọi như vậy không."

Nàng sợ đắc tội với người khác, làm trái quy củ, nói câu nào cũng thận trọng dè dặt.

"Xin công chúa cứ tùy ý xưng hô, không cần phải quá lo lắng."

Đây là câu đầu tiên Tô Lưu Phong nói với nàng, giọng điệu ôn hòa, trong trẻo dễ nghe, thật khiến lòng người say đắm.

Khương La tiếp nhận thiện ý của hắn, thái độ cũng trở nên thân thiết hơn nhiều: "Tô tiên sinh đến để dạy ta lễ nghi sao? Cung nhân thường nói ta không hiểu quy củ..."

Aiz, nàng thật thà quá, lại tự mình làm lộ khuyết điểm!

Không ngờ, Tô Lưu Phong nghe xong cũng không có chút chê bai hay khinh thường gì. Hắn vẫn giữ vẻ điềm nhiên như thường, ôn hòa nói: "Công chúa không phải không hiểu lễ nghi, mà là tính tình phóng khoáng, chưa bị tục lệ bó buộc. Như vậy rất tốt."

Khương La ngây người trong chốc lát. Mọi người đều nói nàng không theo khuôn phép, chỉ riêng Tô Lưu Phong là khen nàng tính tình phóng khoáng, như cảnh xuân hòa thuận, trời quang mây tạnh.

Rõ ràng nàng không muốn khóc, nhưng vào khoảnh khắc ấy, cảm xúc chua xót trong lòng dâng trào, làm thế nào cũng không nén lại được.

-

Khương La không tiếp tục hoài niệm quá khứ nữa.

Nàng chăm chú nhìn Tô Lưu Phong đang bị thương trước mắt, vội vàng lấy ra từ trong lòng một chiếc bánh đưa cho hắn: "Ngươi ăn cái này đi."

Sự ngạc nhiên của Tô Lưu Phong chỉ thoáng qua trong chốc lát, rồi nhanh chóng vụt tắt trong ánh mắt sâu thẳm, chẳng để lại dấu vết nào.

Tô Lưu Phong không nhận lấy chiếc bánh từ tay Khương La mà chỉ cúi đầu, vô lực nhìn chằm chằm vào đầu ngón tay mình.

Khi hắn cúi đầu, Khương La mới có cơ hội nhìn rõ phần da thịt sau cổ của hắn. Tô Lưu Phong quá gầy gò, xương sống lộ rõ, bên dưới lớp áo còn có thể thấy vô số vết thương cũ tím bầm.

Những vết thương này không phải do hôm nay bị đánh, mà giống như vết roi từ nhiều năm trước.

Nàng không nghĩ mấy tên lưu manh kia lại dám cầm roi đánh người giữa phố như vậy.

Chẳng lẽ ngoài bọn chúng, Tô Lưu Phong còn từng chịu những nỗi khổ nào khác nữa sao?

Khương La cố nén nỗi đau trong lòng, đưa tay vén lớp áo rách nát của hắn.

Tấm lưng gầy trơ xương ấy đầy những vết sẹo lớn nhỏ đan xen chằng chịt. Hắn vẫn chưa chính thức nhập triều làm văn thần, chỉ là một đứa trẻ tay trói gà không chặt. Bị người ta đánh mắng cũng không dám cãi lại, cũng không có sức để chống cự.

Tô tiên sinh, người không đáng phải chịu đựng những khổ nhục này!

Khương La còn muốn chạm vào hắn thêm một lần nữa, nhưng đã bị thiếu niên ấy nắm chặt lấy cổ tay mềm mại của nàng.

Sợ làm đau Khương La nên ánh mắt của Tô Lưu Phong dần bớt đi vẻ lạnh lùng. Hắn chợt nhận ra, nới lỏng tay một chút, mong nhận được sự tha thứ.

Hắn chỉ là không thích ai quá gần gũi với mình, dù là một đứa trẻ nhỏ tuổi cũng không ngoại lệ.

Tô Lưu Phong khẽ thì thầm, giọng nói nhỏ như hòa tan vào trong gió, khuyên nàng nên tránh xa hắn.

Đặc biệt là -- "Ta... bẩn lắm."

Hắn vốn là kẻ ăn mày hèn mọn, bị gánh hát rong vứt bỏ, phải lang thang xin tiền. Còn nàng lại trong trẻo sạch sẽ như vậy, hắn sợ sẽ làm bẩn nàng.

Tuy nhiên, khi nghe thấy lời này, lòng Khương La càng thêm chấn động.

Khương La rất muốn nói với hắn rằng, không phải tiên sinh bẩn đâu, mà là thế gian này quá bẩn thỉu.

Đôi mắt nàng nóng lên, trong thoáng chốc đã tràn ngập một lớp lệ mỏng.

Tô Lưu Phong không nán lại lâu, dù cẳng chân đang bị gãy, hắn cũng cố gượng đứng dậy rời đi.

Lúc này, Khương La mới nhận ra rằng, Tô Lưu Phong vì đói rét triền miên mà thân thể không phát triển được, so với kiếp trước thì giờ đây hắn thấp bé hơn rất nhiều.

Nàng biết rất ít về chuyện của hắn, hoàn toàn không rõ sau này hắn làm thế nào để thoát khỏi hiểm nguy, bước vào quan trường.

Nhưng Khuơng La đã từng chứng kiến những khó khăn mà hắn phải chịu đựng, nàng biết rằng đó chắc chắn là một con đường đầy khó khăn, gian khổ.

Khương La cực kì muốn đưa Tô Lưu Phong về nhà, nhưng nàng biết rằng, hiện tại hắn chắc chắn sẽ không tin tưởng nàng.

Vì vậy, Khương La một lần nữa nắm lấy tay áo của Tô Lưu Phong, giọng nói ngây thơ: "Ca ca, ngày mai huynh lại đến đây có được không?"

Tô Lưu Phong không hiểu.

Hắn cúi đầu nhìn xuống cô bé như ngọc ngà trước mặt. Nàng có vẻ ngoài ngoan ngoãn đáng yêu, giữa đôi mày có một nốt ruồi Quan Âm, lấp lánh rực rỡ.

Một cô bé xinh đẹp như vậy, hẳn sẽ không thiếu người thân và bạn bè yêu thương, thế thì nàng không nên bận tâm đến một người xa lạ như hắn, thậm chí là một kẻ ăn mày rách rưới.

"Tại sao?"

Tô Lưu Phong biết rằng, trên người mình chẳng có gì đáng để người khác tham lam, tiếp xúc với hắn nhiều chỉ là một việc làm thua thiệt.

"Huynh trông rất giống một... biểu ca xa của ta! Ta rất nhớ huynh ấy."

Câu nói này là thật, Khương La từ lâu đã xem hắn như bạn cũ, như thân nhân.

Có lẽ vì đã nhận ra được sự chân thành từ Khương La, Tô Lưu Phong không còn lên tiếng từ chối nàng nữa.

"Huynh nhất định phải đến, được không?"

Cô bé ngây thơ với đôi mắt tràn đầy hy vọng. Cuối cùng, chàng thiếu niên ăn mày đầy thương tích cũng đã xiêu lòng, chậm rãi gật đầu.

Gió thu thổi rơi những cánh hoa quế, vương vào mái tóc đen bóng của cô bé, xinh xắn đáng yêu như nàng.

Trước khi gặp Khương La, Tô Lưu Phong dường như chưa bao giờ chú ý đến... nụ hoa quế trong tiết thu, vốn có màu vàng óng ánh như vỏ quýt.

-

Mặt trời lặn phía Tây Sơn, bóng chiều tà dần dần buông xuống.

Tô Lưu Phong trở về mà không xin được chút tiền nào, gặp ngay phải kẻ dẫn dắt gánh hát say rượu, y vừa thấy hắn đã lập tức vung roi lên.

“Chát” một tiếng, roi dài quất xuống đất, bụi đất tung bay.

Chiếc ghế gỗ cũ kỹ không chịu nổi cú đập mạnh, phát ra âm thanh yếu ớt như sắp vỡ.

Tô Lưu Phong đã quen với cảnh tượng này, từ lâu hắn đã trở nên tê liệt trước nỗi đau.

Chưa kịp tiến đến gần người dẫn dắt gánh hát, sư huynh A Lưu, kẻ chuyên luyện vai nữ, đã đá văng chiếc giày đế cao, chắn trước mặt Tô Lưu Phong: "Không được đánh đâu, chưởng quản! Tiểu Phong trên người đầy thương tích, đánh nữa là mất mạng đấy!"

Nghe vậy, kẻ dẫn dắt gánh hát say rượu chỉ cười lạnh một tiếng.

Y tiến tới, bóp chặt lấy khuôn mặt đầy phấn trắng son hồng của A Lưu, nói: "Hắn có gương mặt đẹp như thế, nếu ngoan ngoãn học hát, thì ta cần gì phải làm khó hắn? Nếu muốn sống dựa vào gánh hát này, thì phải biết học lấy tài thực sự, ngươi nói có đúng không? Không xin được tiền thưởng từ các ông lớn, phu nhân dưới khán đài, thì ra ngoài ăn xin còn khó hơn. A Lưu ngươi nghĩ cho hắn, sao không nghĩ cho ta?"

Nói xong, y đẩy mạnh A Lưu ra rồi giơ chân đá mạnh, khiến Tô Lưu Phong gầy gò ngã nhào xuống đất.

Chân Tô Lưu Phong đang bị thương, đứng không vững.

Hắn quỳ rạp xuống đất, cố bảo vệ đầu mình, mặc cho kẻ dẫn dắt gánh hát đánh đập, roi vung loạn xạ.

Chỉ trong chốc lát, da thịt Tô Lưu Phong lại rách toạc, trên lưng hắn chằng chịt thêm vài vết sẹo mới đầy hung tợn.

Thuở còn nhỏ, vì một bữa cơm mà người nhà đã bán Tô Lưu Phong vào gánh hát. Dù không ký khế ước thân phận, nhưng hắn biết rằng, mạng này của hắn coi như đã chấm hết tại đây.

Tô Lưu Phong không muốn uốn giọng hát khúc, mà gánh chủ quý đôi mày mắt thanh tú của hắn, muốn rèn giũa tính khí của hắn nên tất nhiên sẽ bày đủ mọi trò.

Đánh hắn một lần là ngẫu nhiên, đánh trăm lần thì thành thói quen.

Ai bảo Tô Lưu Phong dường như hoàn toàn không cảm thấy đau đớn, đến cả tiếng rêи ɾỉ cũng chẳng phát ra.

Hắn có cốt cách kiên cường, cứ thế mặc cho gánh chủ đánh đập tàn nhẫn. Cũng bởi cái tính cứng đầu "không biết điều" này, mà kẻ bạo hành chẳng biết nặng nhẹ, ra tay càng thêm tàn độc.

Kẻ đó muốn thấy Tô Lưu Phong cầu xin tha mạng;

Muốn bẻ gãy cốt cách hảo hán của hắn;

Muốn ép hắn như lũ kiến hèn mọn mà quỳ phục dưới chân, sống qua ngày trong sự khinh bỉ.

Gánh chủ ngoài kia phải làm cháu ngoan cho các quan lớn, may mắn là trong nhà còn nuôi một đám bao cát để trút giận!

Lục phủ ngũ tạng của Tô Lưu Phong đau đến mức muốn hộc máu, trong cơn hoảng loạn, một đoạn thảo ô đen nhánh ở trong lòng hắn rơi ra.

Hắn ngẫm một lúc rồi cử động ngón tay, lặng lẽ thu lại đoạn thảo ô vào trong ngực.

Một trận đòn độc ác kéo dài đến tận nửa đêm mới dừng.

Gánh chủ quậy phá mệt mỏi, lại uống thêm một hũ rượu, say mèm trở về căn phòng dột nát mà ngủ.

Lũ trẻ nhỏ không dám lên tiếng, những đứa lớn hơn cũng chẳng muốn giúp đỡ. Chỉ có sư huynh A Lưu vắt khô khăn đến lau vết thương cho Tô Lưu Phong. Khi A Lưu lau đi chút máu dơ trên xương mày, đôi mày mi mắt thanh tú của Tô Lưu Phong lại hiện rõ trước mắt hắn.

A Lưu thở dài: "Tiểu Phong, sao đệ phải khổ như vậy làm gì chứ!"

Tô Lưu Phong không nói lời nào, dường như đối với ai hắn cũng đều ít lời như vậy.

A Lưu đã quen với sự lạnh lùng của Tô Lưu Phong, nhưng hắn biết, Tô Lưu Phong vẫn nhớ đến tình nghĩa huynh đệ của mình, nếu không thì mỗi lần kiếm được chút tiền dư, Tô Lưu Phong cũng sẽ không chia một phần cho hắn, để hắn có thể dành dụm chút ít tiền mà trốn khỏi nơi này.

Giống như hôm nay, Tô Lưu Phong đã xé nửa cái bánh giấu trong ngực, chia cho sư huynh A Lưu.

Đêm lạnh như nước, cửa sổ giấy đã rách, gió lùa vào xào xạc. Hai người nằm sát trong góc giường lớn, nghe gió thổi qua đầu, trằn trọc mãi không ngủ được.

A Lưu lẩm bẩm một câu: "Ngày tháng thế này biết bao giờ mới chấm dứt đây..."

Tô Lưu Phong hiếm khi mở lời: "Nếu gánh chủ chết rồi, sư huynh có chỗ nào để đi không?"

A Lưu kinh hãi, sợ đến mức bật dậy ngồi thẳng lưng.

Hắn mượn ánh trăng cẩn thận quan sát đôi mày mắt của Tô Lưu Phong, cố phân biệt lời hắn nói là thật hay đùa: "Đệ muốn làm gì? Tiểu Phong, đệ định làm gì?"

Tô Lưu Phong trầm ngâm, lại hỏi thêm một câu: "Có chỗ đi không?"

A Lưu á khẩu, ấp úng mãi một hồi lâu mới đáp: "Có.""

"Ừm."

Tô Lưu Phong không nói thêm nữa, hắn trở mình rồi chìm vào giấc ngủ.

Cứ như thể câu nói đầy rợn người kia chỉ là một ảo ảnh thoáng qua.

-

Sân thu có trăng soi sáng, hoa quế vàng ngát hương.

Chu Ngỗ Tác lo Khương La sợ bóng tối, nên đặc biệt treo đèn dưới những cành cây và mái hiên.

Ông tin vào quỷ thần, nghe nói những đứa trẻ xinh đẹp thường dễ bị Bồ Tát đưa đi làm ngọc đồng tử, nên ông còn buộc mấy bộ quần áo cũ của Khương La lên cây quế để làm thế thân tránh tai họa.

Mỗi lần về muộn, Chu Ngỗ Tác đều mang theo chút đồ ngọt để bù đắp cho cháu gái. Hôm nay, ông mang về nhà một gói bánh ngọt bọc trong giấy dầu cùng với xôi nếp tráng đường.

Ông gõ cửa nhà, Khương La đáp lại: "Mật mã!"

Đây là quy tắc mà Chu Ngỗ Tác đã dặn dò, bảo Khương La khi ở nhà không được tùy tiện mở cửa, phải lắng nghe xem ai đến -- bình thường không có trẻ con ở nhà, trộm cướp cũng chỉ lấy đồ, nhưng có trẻ con thì ông cũng không muốn Khương La gặp phải chuyện gì.

Chu Ngỗ Tác xoa cằm: "Thiên vương cái địa hổ."

"Tiểu kê đốn ma cô!*" Khương La non nớt đáp lại, rồi vui mừng kéo cửa ra, "Ông ơi, ông về rồi!"

(*Gà con hầm nấm)

Chu Ngỗ Tác bế nàng lên, xoay một vòng rồi véo má nàng: "Ngoan lắm! Xem này, đây là gì?"

Ông như dâng bảo vật rồi giơ gói đồ ngọt lên cho Khương La xem.

Cô bé mắt hạnh sáng long lanh, hai tay che miệng, vui sướиɠ reo lên: "Bánh ngọt!"

Xem kìa, Chu Ngỗ Tác miệng thì bảo không muốn Khương La bị sâu răng, nhưng thực chất vẫn thương yêu cháu gái, luôn mang về cho cô bé những món ngọt vừa ý.

Chu Ngỗ Tác đã tắm rửa ở nhà công trong huyện nha, về nhà sợ còn vương mùi nên lại tắm thêm lần nữa.

Sau khi thay một bộ trường sam, ông nhìn thấy Khương La đang dùng ngón tay nhỏ xíu đếm từng chiếc bánh ngọt, rồi nhẹ nhàng xếp từng cái vào túi lương thực.

"Nhiều như vậy con có ăn hết được không?" Chu Ngỗ Tác bật cười.

Khương La vui vẻ đong đưa đôi chân nhỏ: "Con mang một ít cho bạn."

"Được, A La vui là ông vui."

Chu Ngỗ Tác là một bậc trưởng bối hào phóng, yêu thương cháu gái hết mực. Dù Khương La có đòi sao trên trời, ông cũng sẽ nghĩ cách hái xuống cho nàng.

Bánh ngọt chỉ lót dạ tạm thời, Chu Ngỗ Tác xắn tay áo bước vào bếp, trổ tài nấu nướng cho cháu gái xem.

Khương La nghĩ đến việc ngày mai có thể gặp thầy thì liền cười khúc khích một mình.

Nếu là kiếp trước, khi mà Tô Lưu Phong quyền cao chức trọng, hẳn là mọi thứ đều đã từng nếm qua, nên chẳng mấy điều khiến hắn cảm thấy mới mẻ hay thú vị; nhưng ở kiếp này, khi hắn lâm vào cảnh sa cơ thất thế, nàng mới có thể giúp đỡ hắn chút ít, tựa như cuối cùng nàng cũng có chút giá trị, có thể cứu lấy tiên sinh ra khỏi chốn nước sôi lửa bỏng.

Khương La bận rộn với đống lương thực, trông chẳng khác nào một con chuột nhà vừa trữ đầy thức ăn, thỏa mãn vô cùng.

Nàng nhảy xuống khỏi ghế đá, đôi chân nhỏ ngắn cứ thế tíu tít chạy đến bên cạnh Chu Ngỗ Tác để giúp ông nấu cơm.

Khương La chỉ là một tiểu nha đầu, chẳng thể giúp được việc gì, nên chỉ đành ngoan ngoãn ngồi xổm trước bếp lò canh lửa.

Sợ nàng rảnh rỗi mà buồn chán, Chu Ngỗ Tác còn ném vào đống củi đang cháy một củ khoai môn để nướng cho tiểu nha đầu ăn.

Khương La lại vô thức ném thêm một củ nữa, để dành cho Tô Lưu Phong.

Vào mùa thu, để giữ tươi rau quả, người ta thường bỏ xuống giếng để ướp lạnh. Chu Ngỗ Tác vớt lên một chậu đậu tằm, rồi ngắt bỏ phần đầu và những sợi già.

Khương La chán nản không có việc gì làm, bỗng nhớ tới lời Vương Huân nói hôm nay. Hắn bảo Tô Lưu Phong chỉ là một tiểu tử chạy việc cho gánh hát, mà gánh hát nào lại để cho kép hát phải ra ngoài xin tiền như thế chứ? Nhìn bộ dạng của Tô Lưu Phong, cũng chẳng giống người từng luyện tập tuồng hát.

Cái gánh hát ấy, rốt cuộc là nơi như thế nào?

"Ông ơi, ông có từng nghe nói ở trấn Ngọc Hoa có... ừm, gánh hát nào không?"

"Con nghe ai nói vậy?" Chu Ngỗ Tác biết Khương La từ nhỏ đã thông minh lanh lợi, chưa bao giờ nghĩ có điều gì mà trẻ con không thể bàn tới. Nhưng bọn trẻ trong gánh hát thường là bị người môi giới bán đi, chẳng biết bị lừa gạt hay bắt cóc từ những gia đình lương thiện thế nào, trong lòng ông không muốn Khương La tiếp xúc nhiều với những người đó.

Thế nên, Chu Ngỗ Tác nghiêm mặt, dọa nàng: "Nếu là cái gánh hát hoang dã của nhà họ Liễu ở phố Tây, con đừng có mà lảng vảng tới đó. Nghe nói lũ trẻ dưới trướng của Liễu chưởng quản đều có giọng nói từ khắp các nơi, cũng không biết họ từ đâu mà thu gom được! Lỡ như con bị người ta đánh mê rồi bắt đi, ông nội không biết phải tìm con ở đâu!"

"Con biết rồi mà, A La rất ngoan."

Nàng tỏ vẻ đáng yêu khiến Chu Ngỗ Tác bật cười ha hả.

Nhưng trong lòng tiểu nha đầu đã bắt đầu tính toán -- vị Liễu chưởng quản này, sao nghe có vẻ quen tai đến thế?

Khương La cố gắng lục lọi ký ức từ kiếp trước, cuối cùng cũng nhớ ra một chuyện kỳ lạ.

Kiếp trước, Chu Ngỗ Tác từng tiếp nhận một vụ án liên quan đến Liễu chưởng quản.

Hắn chết thật đáng tiếc, là do uống phải rượu thuốc ngâm thảo ô -- một loại thuốc vốn dùng để trừ phong hàn, tiêu thấp và giảm đau nhức khớp -- mà trúng độc là chết bất đắc kỳ tử!

Phải biết rằng, thảo ô tuy có thể chữa phong thấp và đau nhức xương khớp, nhưng lại có độc tính, cần phải được hấp chín rồi mới được dùng làm thuốc. Nếu không cẩn thận mà trực tiếp đem thảo ô ngâm rượu thuốc, người uống rượu nếu lạm dụng sẽ dẫn đến suy thận, thậm chí tử vong ngay tức khắc.

Khi nấu rượu mà không cẩn thận như thế, chỉ một chút sai sót thôi cũng đủ để mang chính mạng sống của mình ra đánh đổi.

Việc này lúc bấy giờ lan truyền rất rộng, khiến dân chúng trong trấn kinh hãi không ít, đến nỗi việc kinh doanh của tiệm thuốc cũng trở nên ế ẩm. Trong một khoảng thời gian dài, chẳng ai dám tùy tiện uống rượu cao lương ngâm thuốc nữa.