Chương 9

Camp’s End thực chất không phải một thị trấn mà là vùng lân cận của thị trấn Pico Mundo, nơi đó là kí ức sống động về một thời gian khổ ngay cả khi những người còn lại trong cộng đồng chúng tôi đang trải qua giai đoạn kinh tế phát đạt. Bãi cỏ xơ xác nhiều hơn xanh tốt, có nơi chỉ là sỏi đá. Hầu hết những ngôi nhà nhỏ hẹp cần lớp vữa mới, nước sơn mới và đợt ngưng chiến với mối mọt.

Các ngôi nhà tạm bợ được dựng lên tại đây vào cuối những năm 1800, thời điểm nhóm tìm kiếm có nhiều mộng tưởng hơn trí thông minh đã bị lôi kéo đến nơi này bởi mỏ bạc và những lời đồn thổi về mỏ bạc. Họ khám phá được cơ man toàn tin vịt.

Thời gian trôi qua, khi nhóm tìm kiếm trở thành huyền thoại và không còn tìm được ai bằng xương bằng thịt nữa, các ngôi nhà tạm bợ dãi dầu mưa nắng bị thay thế bằng nhà tranh, nhà gỗ lợp ván và nhà gỗ mái ngói.

Tuy nhiên tại Camp’s End, công cuộc nâng cấp chuyển hướng sang phá hủy nhanh hơn nơi khác. Thế hệ này nối tiếp thế hệ khác, vùng lân cận vẫn giữ nguyên nét đặc trưng cơ bản, một diện mạo chưa làm tiêu tan cũng như cạn kiệt sức chịu đựng: cả khu vực lún xuống, bong tróc, gỉ sét, hoang vu, bạc thếch nhưng không bao giờ hoàn toàn tuyệt vọng trong hoàn cảnh khốn khổ.

Bất hạnh dường như rỉ ra từ chính mặt đất, như thể nơi trú ngụ của diêm vương ở địa ngục nằm ngay bên dưới những con đường này, gác xép nghỉ ngơi của Ngài đặt quá gần lớp bề mặt bên ngoài đến mức hơi thở hôi thối bật ra theo từng tiếng ngáy đã ngấm lên đất đai.

Điểm dừng chân của Gã Nấm là một ngôi nhà gỗ nhỏ trát vữa vàng nhạt, cánh cửa chính màu xanh dương phai mờ. Nhà để xe nghiêng ngả như thể sức nặng của riêng ánh nắng đã đủ đánh sập nó.

Tôi dừng xe bên này đường, đối diện ngôi nhà, trước khoảnh đất trống đầy những cây cà độc dược và những cây mâm xôi khô héo, đan kết chồng chéo như cái bẫy bắt những kẻ mơ mộng. Nhưng chúng chỉ bắt được mớ giấy báo nhàu nát, vỏ lon bia và một thứ trông như một cái qυầи ɭóŧ ống rộng của đàn ông bị xé tả tơi.

Trong lúc tôi hạ cửa sổ xe xuống và tắt động cơ, tôi thấy Gã Nấm mang kem và mấy gói đồ khác vào nhà. Gã vào bằng lối cửa phụ nằm dưới bóng mát nhà để xe.

Chiều mùa hè ở thị trấn Pico Mundo kéo dài và nóng nực với chút hi vọng có gió nhưng đừng trông ngóng trời mưa. Tuy đồng hồ trên tay tôi và đồng hồ trong xe hơi đều thống nhất chỉ số 4:48 nhưng ánh nắng thiêu đốt kia vẫn trải dài phía trước.

Dự báo thời tiết buổi sáng thông báo nhiệt độ cao nhất lên đến một trăm mười độ[12], con số chưa từng có ở sa mạc Mojave. Tôi nghi ngờ dự báo đó đã nói quá.

[12] 110 độ Fahrenheit (43 độ Celcius).

Trong khi những bà con bạn bè thích khí hậu mát mẻ kinh ngạc trước mức nhiệt độ đó thì cư dân thị trấn Pico Mundo xem đấy là trạng thái khí tượng học tốt đẹp, lưu ý rằng độ ẩm chỉ có mười lăm hay hai mươi phần trăm. Họ khăng khăng bảo rằng một ngày hè ở mức trung bình không giống phòng xông ướt ngột ngạt mà chỉ như phòng xông khô khiến cơ thể khoan khoái.

Ngay cả trong bóng râm của cây nguyệt quế Ấn Độ khổng lồ già nua có phần rễ chắc chắn đủ sâu để hút nước sông Styx[13], tôi cũng không thể vờ như mình đang lười nhác nằm trong phòng xông khô. Tôi có cảm giác hệt đứa trẻ thơ thẩn đi vào ngôi nhà hào nhoáng của mụ phù thủy trong Khu rừng hắc ám và bị tống vào lò nướng đang chỉnh ở chế độ lửa nhỏ.

[13] Con sông dưới địa ngục, ranh giới giữa thế giới của người sống và người chết.

Thỉnh thoảng một chiếc xe hơi chạy qua nhưng không người khách bộ hành nào xuất hiện.

Không trẻ con nô đùa. Không vị chủ nhà nào đánh bạo ra ngoài lăng xăng bên khu vườn quắt queo.

Một chú chó lê lết bò qua, đầu cúi thấp, lưỡi lè ra như đang ngoan cố lần theo ảo tưởng về một con mèo.

Chẳng mấy chốc khi tôi ngồi trong vũng mồ hôi, cơ thể tôi sẽ cung cấp phần độ ẩm mà không khí còn thiếu.

Lẽ ra tôi có thể khởi động chiếc Mustang và bật máy điều hòa nhưng tôi không muốn phí phạm xăng của cô Terri hay làm động cơ quá nóng. Hơn nữa, bất kì cư dân sa mạc nào cũng biết quá trình lặp đi lặp lại hết nung nóng rồi lại làm mát có thể tôi luyện một số kim loại, nhưng điều đó sẽ làm nhụt chí con người.

Bốn mươi phút sau, Gã Nấm tái xuất hiện. Gã khóa cánh cửa phụ của ngôi nhà, việc đó cho thấy trong nhà không còn ai, rồi gã vào ngồi sau vô lăng chiếc Explorer đầy bụi.

Tôi trượt người xuống ghế, thấp hơn thành cửa sổ, lắng tai nghe trong lúc chiếc SUV chạy qua và để lại vệt âm thanh nhỏ dần rồi im bặt.

Băng qua phía ngôi nhà vàng nhạt, tôi không quá lo chuyện bị theo dõi từ những khung cửa sổ nhuộm nắng dọc theo con đường. Sinh sống ở Camp’s End tạo nên sự xa lánh hơn là tinh thần cộng đồng cần có để hình thành lực lượng dân phòng.

Thay vì đi tới cửa chính màu xanh dương và gây ra sự chú ý đặc biệt cho mọi người, tôi nhắm đến bóng mát nhà để xe và gõ lên cánh cửa phụ Gã Nấm đã sử dụng. Không ai trả lời.

Nếu cánh cửa khóa chặt như nêm, tôi đã phải phá tung cửa sổ. Đối mặt với then cài sơ sài, như bao thanh niên Mỹ khác, tôi tự tin mình đã được những bộ phim về cảnh sát trên ti-vi dạy rất kỹ rằng tôi có thể dễ dàng chui tọt vào nhà.

Để đơn giản hóa cuộc sống, tôi không mở tài khoản ngân hàng và chỉ thanh toán bằng tiền mặt; thế nên tôi không có thẻ tín dụng. Bang California đã chu đáo cấp cho tôi một tấm bằng lái cán mỏng đủ cứng để cạy khóa.

Đúng như tiên đoán, gian bếp không phải nơi tôn thờ kiểu trang trí của Martha Stewart[14] hay chủ nghĩa sạch sẽ. Nơi này rõ ràng cũng không thể gọi là chuồng heo; nó chỉ tệ hại bởi tình trạng bừa bộn tổng thể, đây đó là những mẩu bánh vụn, tặng phẩm dành cho bầy kiến nếu chúng muốn ghé thăm.

[14] Chuyên gia về mảng khéo tay hay làm.

Một mùi thoang thoảng nhưng khó chịu phảng phất trong không khí mát mẻ. Tôi không thể nhận biết nó bắt nguồn từ đâu, thoạt đầu tôi tưởng đó hẳn là hương thơm độc nhất vô nhị của Gã Nấm, vì xem ra gã là người bốc ra thứ mùi lạ lùng và độc hại nếu không phải thứ mùi chết người.

Tôi không biết mình tìm kiếm gì nơi đây, nhưng tôi mong sẽ nhận ra thứ đó nếu nhìn thấy. Một thứ lôi cuốn bọn ông kẹ đi theo người đàn ông này và tôi theo chân chúng với hi vọng khám phá manh mối dẫn tới lí do tạo nên sự quan tâm nơi bọn chúng.

Sau khi đảo quanh gian bếp, cố gắng nhưng không thể tìm thấy ẩn ý trong một cốc cà phê nguội lạnh đã vơi nửa, một vỏ chuối sạm đen vứt trên thớt, đống chén đĩa bẩn trong chậu rửa, những thứ thông thường nằm trong ngăn kéo và tủ đựng thức ăn, tôi nhận ra không khí không chỉ mát mẻ mà còn ớn lạnh một cách khó lí giải. Phần lớn mồ hôi trên lớp da phơi trần của tôi đã khô. Sau gáy có cảm giác như đóng băng.

Khó lí giải sự giá lạnh bao trùm vì thậm chí tại sa mạc Mojave, nơi máy điều hòa là thứ thiết yếu thì một ngôi nhà cũ kỹ và xoàng xĩnh tại đây hiếm khi có được hệ thống làm mát tập trung. Những dàn máy điều hòa dạng khung cửa sổ, mỗi cái nằm một hốc, là chọn lựa có thể chấp nhận cho phần trang bị thêm tốn kém tại một nơi trú ngụ không đáng tiêu pha.

Gian bếp không có những dàn máy dạng cửa sổ đó.

Thường tại một ngôi nhà như thế này, người ta chỉ làm mát không gian khi đêm xuống và chỉ trong phòng ngủ. Nếu không sẽ khó lòng chợp mắt. Song máy điều hòa gắn trong phòng ngủ không thể làm mát toàn bộ ngôi nhà, ngay cả một ngôi nhà bé tẹo như nơi đây. Dứt khoát máy điều hòa không thể ướp lạnh gian bếp.

Vả lại, dàn máy điều hòa sẽ làm ồn: tiếng bình bịch và vo vo của máy nén không khí, tiếng lách cách của quạt gió. Ở đây tôi không nghe âm thanh nào như thế cả.

Trong lúc tôi đang ngẩng đầu nghe ngóng, ngôi nhà chìm trong thinh lặng. Bỗng nhiên tôi nhận ra sự tĩnh mịch này không bình thường.

Lẽ ra đôi giày của tôi phải gây tiếng động trên tấm vải lót sàn đã rạn, lớp ván sàn long ra do thời gian, sức nóng và sự khô hanh gây co rút. Vậy mà tôi di chuyển êm ru như con mèo đi trên tấm đệm.

Xét lại, tôi nhận thấy cửa ngăn kéo và tủ đựng thức ăn đóng mở với âm thanh vô cùng khẽ khàng, như thể chúng được lắp đặt loại khe trượt và bản lề không ma sát.

Khi tôi tiến đến cánh cửa để mở nằm giữa gian bếp và phòng bên, không khí lạnh dường như dày đặc hơn, khiến sự truyền dẫn âm thanh bị bóp nghẹt hơn nữa.

Phòng khách thưa thớt đồ đạc xem ra cũng tồi tàn và bừa bộn hệt gian bếp. Những quyển sách cũ mòn vẹt, chắc chắn mua từ hiệu sách cũ, và mớ tạp chí vương vãi khắp sàn nhà, ghế dài, bàn cà phê.

Mấy quyển tạp chí là thứ bạn có thể dự đoán. Ảnh phụ nữ khỏa thân nổi bật giữa loạt bài báo về các môn thể thao mạo hiểm, xe đua tốc độ và những chiêu dụ dỗ đáng khinh, vây quanh tất cả là mớ quảng cáo về thảo mộc cường dương, về những dụng cụ bảo đảm làm gia tăng một kích cỡ cho một bộ phận cơ thể được cánh mày râu vô cùng yêu quý, nói thế tôi không ám chỉ đến bộ não đàn ông.

Bộ phận cơ thể tôi yêu quý chính là trái tim vì đó là thứ duy nhất tôi phải trao cho Stormy Llewellin. Hơn nữa, khi tôi thức dậy mỗi sáng, nhịp đập của nó là bằng chứng đầu tiên rõ ràng nhất cho thấy suốt đêm qua, tôi chưa gia nhập cộng đồng những người chết còn ngoan cố nán lại trần gian.

Đống sách khiến tôi ngạc nhiên. Chúng là tiểu thuyết lãng mạn. Xét theo hình minh họa ngoài bìa, những quyển sách này nghiêng về thể loại đàng hoàng, kiểu mà trong đó bộ ngực phụ nữ hiếm khi nhô ra và áσ ɭóŧ không thường xuyên bị xé toạc. Những câu chuyện liên quan đến tình yêu nhiều hơn tìиɧ ɖu͙©, và chúng đối kháng đặc biệt với mớ tạp chí đầy rẫy hình phụ nữ khoe ngực, duỗi chân, liếʍ môi khêu gợi.

Khi tôi nhặt một quyển sách lên và lật xem qua, những trang sách lướt nhanh không hề phát ra tiếng động.

Dường như tôi không thể nghe thấy gì khác ngoài âm thanh trong cơ thể mình: tiếng tim đập thình thịch, tiếng máu chảy ào ào vang lên bên tai tôi.

Đúng ra tôi phải bỏ đi ngay lúc ấy. Hiệu ứng bóp nghẹt âm thanh kì quái của không khí thâm hiểm trong ngôi nhà này lẽ ra phải khiến tôi hoảng sợ.

Vì đặc trưng cuộc đời tôi là những trải nghiệm lạ lùng, đầy ắp như mùi thịt hun khói và tiếng xèo xèo của mỡ trên vỉ nướng nên tôi không dễ bị hù dọa. Chưa kể tôi thừa nhận mình có khuynh hướng luôn đầu hàng trước tính tò mò, dù đôi lúc cũng thấy ân hận.

Lật giở những trang tiểu thuyết lãng mạn im lìm, tôi nghĩ có thể Gã Nấm không sống một mình ở đây. Mấy quyển này biết đâu là tủ sách yêu thích của bạn gái gã.

Triển vọng đó không được củng cố qua những chứng cớ trong phòng ngủ. Tủ quần áo chứa mỗi đồ của gã. Giường chưa dọn dẹp, đồ lót và tất của ngày hôm qua vứt lung tung, nho khô Đan Mạch ăn dở nằm trong cái đĩa giấy đặt trên bàn cạnh giường, những điều ấy bác bỏ sự hiện diện truyền bá văn minh của một phụ nữ.

Máy điều hòa gắn trong hốc tường không hoạt động. Không làn gió nhẹ nào bay ra từ miệng thổi của máy.

Tại đây, mùi hôi thối thoang thoảng lúc đầu tôi ngửi thấy trong bếp trở nên nồng nặc hơn, gợi nhớ đến mùi dây điện chập mạch, nhưng không hẳn chỉ có vậy, còn thoáng mùi amoniac và chút ít vụn than cùng luồng hơi mùi hạt nhục đậu khấu, nhưng không rõ ràng là một mùi nào trong số kể trên.

Hành lang ngắn dùng làm phòng ngủ cũng dẫn đến phòng tắm. Tấm gương cần được lau chùi. Trên kệ, ống kem đánh răng không được đậy kín. Một sọt rác nhỏ đầy khăn giấy đã sử dụng và mấy thứ rác khác.

Từ phòng ngủ nhìn sang bên kia hành lang còn thêm một cánh cửa nữa. Tôi cho rằng nó dẫn tới tủ quần áo hoặc căn phòng ngủ thứ hai.

Ở ngưỡng cửa, không khí rét buốt đến mức tôi có thể nhìn thấy hơi thở của mình, một luồng hơi nhợt nhạt.

Tôi áp lòng bàn tay vào núm cửa lạnh băng và xoay tròn. Đằng kia, cơn lốc của sự tĩnh lặng hút âm thanh cuối cùng ra khỏi tai tôi, trong phút chốc tai tôi điếc đặc, bất chấp nỗ lực làm việc của trái tim.

Căn phòng tối đen chờ tôi.