Chương 1-2

Vương triều Nhật Diệu, Tử Quang năm thứ hai, thời buổi lúc đó đang vô cùng rối loạn.

Người lên ngôi báu lúc này là tân đế Thiên Triệt,

tựa như

một bầu trời mới được mở ra, vì thế sẽ có những thay đổi lớn trong triều đình, vị tân đế này quyết định tẩy bài trong đám quần thần. Một khi ngôi vua đã đổi chủ, thì những thế lực quyền quý do tiên đế sủng ái trước đây sẽ bị tiêu tan, mà những người có quan hệ mật thiết như

thông gia, đồng minh của tân đế đương nhiên sẽ được trọng dụng và trở thành những con người quyền quý bậc nhất trong triều đại Nhật Diệu này. Cho dù chức vụ, quyền lực có sự biến hóa điều chỉnh vô cùng lớn thì lẽ đời cũng không hề thay đổi, chỉ là dệt hoa trên gấm, thấy gió chiều nào che chiều ấy với những con người khác mà thôi, như vậy những người quyền quý sẽ luôn được người khác luồn cúi làm thân, đó chính là cái gọi là mười năm Hà Đông, mười năm Hà Tây. Tuy rằng tân chính mới bắt đầu,nhưng vị tân đế vương này tâm tính trầm ổn, đối với việc triều chính luôn dùng thái độ tĩnh lặng ít động,

ấy vậy mà quần thần thì

lại khác, sóng gió nổi lên bốn bề.

Vương thân quốc thích trong hoàng tộc cùng những gia tộc đại quan luôn cố gắng tranh thủ thời cơ nịnh bợ nhằm củng cố thế lực của bản thân, dù bên ngoài ai cũng tỏ ra bình tĩnh, nhưng trong lòng luôn gợn sóng dâng cao. Có những người ủng hộ thế lực mới ngay từ đầu, hoặc cũng có những người không muốn theo cũ để rồi phải chết, tàn lụi theo từng ngày

nên cũng thuận theo, hay cũng có những người không phải suốt ngày lên triều hay đi đến những dinh thự

đắt tiền để nịnh bợ giao hảo mà lại kiệt lực làm cho mình trở thành hoàng thân, từ

nay về sau thuận lý thành chương biến thành tân quý quyền cao chức trọng trong triều đình.

Tân đế Thiên Triệt ba mươi tuổi đăng cơ, nay bất quá cũng mới có ba mươi hai tuổi, thanh xuân chính thịnh, hơn nữa y theo định chế của vương triều Nhật Diệu, một vị đế vương nhiều nhất có thể lập tứ

cung phi, bát thϊếp phi, thế mà vị tân đế này trước mắt chỉ có ba cung phi, bốn thϊếp phi, vẫn còn có thể tuyển thêm nhiều cung tần mỹ nữ khác. Như vậy, tình huống này thật có lợi cho những quan viên đại thần có nữ

tử mới lớn, đối với bọn họ đây quả là một sự kiện tuyệt vời!

Những năm về trước, khi Tử

Quảng Đế chỉ là một Lưu Cách Vương, hoàng đế lúc đó là Cần Nghiệp đế có bảy vị hoàng tử. Nguyên lúc bấy giờ, Lưu Cách Vương trong mắt Cần Nghiệp đế không phải là vương tử lý tưởng để được chọn lên ngôi báu. Thế nhưng lại có sự việc bất ngờ xảy ra, vị vương tử được chọn làm người kế vị

ấy sau mười mấy năm chịu sự tranh đấu của ba hoàng tử

khác đã bị một kiếm đâm chết, chính vì thủ đoạn quá mức kịch liệt khiến cho triều thần chính tranh không ngừng, thậm chí thiếu chút nữa diễn biến thành bức cung chính biến. Cần Nghiệp đế vô cùng thịnh nộ, sau một phen đại tẩy trừ

nghiêm túc triều đình,đã trực tiếp triệu hồi thất hoàng tử – Lưu Cách Vương lúc đó đã được ban đất phong vương, lập hắn lên làm Đông Cung thái tử chỉ vì hắn là người duy nhất không bị tra ra được có tham dự

trong cuộc đấu tranh vương quyền

giữa các vị hoàng tử.

Vào thời điểm Tử

Quang Đế vẫn là Lưu Cách Vương, hắn chỉ cưới hai chính thê, một thị thϊếp; sau mười năm làm thái tử, để củng cố căn cơ tương lai chấp chính, sau khi lên ngôi có thể có thế lực trợ giúp, Cần Nghiệp đế cùng hoàng hậu lúc đó đều nhọc lòng vì hắn chọn lựa những nữ nhân có bối cảnh thích hợp, y theo bối cảnh của những mỹ nữ

mà cấp thân phận chính phi hoặc thϊếp phi

để tiến vào phủ thái tử.

Nếu không kể hai năm trước Minh Ân Hoa được tiến đến phủ thái tử, thì

Tử

Quang đế Thiên Triệt có thể nói đã tám năm không nạp thêm tân nương vào cửa.

Tài nữ thứ nhất của Minh gia là Minh Ân Nhã đã bị bệnh mà chết, thế nên việc Minh Gia tái gả thêm một nữ

nhi tiến hoàng gia, bổ sung vào vị trí khuyết thiếu là điều đương nhiên. Dù sao với quyền thế

của Minh gia hiện nay chẳng khác gì mặt trời ban trưa. Bên quan Võ thì có hai vị tướng quân lập được nhiều chiến công hiển hách. Bên quan Văn thì cũng có ba vị xuất thân đỗ đạt khoa cử, sau khi phân tài cao thấp trong kì thi khảo hạch ở Lại Bộ, vì biểu hiện không tồi chút nào, từ

đức hạnh đến lao khảo, ngôn, thân, thư, phán lục khoa đều khiến mọi người phải mở to mắt. Vì thế nay đạt được quyền cao chức trọng trong tay, có người thì giữ chức Lại Bộ Thượng Thư, người thì cũng giữ vị trí nhị phẩm, từ

tài năng cho đến chức vị đều làm cho người ta phải tâm phục khẩu phục.

Thiên hạ nói rằng ở vương triều Nhật Diệu trong năm mươi năm qua, nếu Minh gia tự xưng là thuộc dòng dõi quý tộc sáng chói thứ hai thì e rằng không có ai tự xưng là thứ nhất. Gần năm mươi năm qua, toàn bộ gia tộc đào tạo ra được hai vị võ tướng, ba quan văn cấp bậc cao. Phóng tầm mắt ra cả thiên hạ, nào có người dám cùng tranh giành? Một gia tộc hiển hách như vậy, lại có những môn hạ đều là quan viên được hoàng thượng tín nhiệm, trọng dụng nhất, bất luận thế nào, những con người trong gia tộc ấy là những người nắm quyền lực trong tay, thế

nhưng càng vì thế họ càng tuyệt không cho phép bản thân mình có chút sơ xuất.

Mười sáu năm trước, vào thời điểm hoàng hậu tác chủ, để cho tài nữ, cũng là mỹ nữ đệ nhất của Minh gia gả cho Lưu Cách Vương Thiên Triệt – người mà lúc ấy tuyệt đối không có khả năng trở thành vương tử.

Không ai nghĩ rằng, cùng với hoàng tộc kết thân, gây dựng nên một mối quan hệ hôn nhân chính trị bình thường, thế nhưng giờ đây lại đem quyền thế của Minh gia dâng lên đến mức cao nhất; không có ai dự đoán được Thiên Triệt

lại có thể ngoài ý muốn trở thành Đông Cung thái tử

cao cao tại thượng, cũng đăng cơ thành công, trở

thành vị hoàng đế quyền uy.

Thế nhưng, năm ấy khi Thiên Triệt thuận lợi đăng cơ thì Minh Ân Nhã sau nhiều năm thân thể suy yếu, rốt cục đã không chống đỡ được, hương tiêu ngọc vẫn tại phủ thái tử. Nàng ra đi chỉ để lại một nữ nhi mới tròn hai tuổi. “Minh Hạ

Cung”


xa hoa mới được tu kiến hoàn thành kia nàng không kịp đến ở dù chỉ một ngày…

Mỗi vị chính phi trong tứ chính phi của hoàng đế đều được ban cho

một tẩm cung chuyên chúc. Tử

Quang Đế đã lấy bốn mùa để đặt tên cho nơi ở của các vị chính phi. Vì thế bốn tẩm cung ấy lần lượt được đặt tên là:

Vịnh Đông Cung, Minh Hạ

Cung, Kim Thu

Cung, Tàng Đông Cung
. Và theo đúng nguyện vọng trước khi chết của Minh Ân Nhã, cùng với việc củng cố chính trị, sau 100 ngày đại tỷ qua đời, Minh Ân Hoa đã được gả tiến hoàng cung, thay thế cho tỷ tỷ của mình, trở thành chủ nhân của “Minh Hạ

Cung”.


Cũng không biết Tử

Quang Đế là nghĩa nặng tình sâu hay là không nặng nữ

sắc, tóm lại, sau khi Minh Ân Hoa được gả vào năm đó, cũng không thấy tiết mục “Thấy người mới thì cười, sao lại khóc vì cũ nhân” được truyền ra từ

trong hậu cung của vị đế vương này. Tử

Quang Đế biểu hiện trước sau như một, nên làm gì thì vẫn cứ làm,cũng không thấy hắn đối với tân nương có thêm coi trọng đặc biệt gì.

Vì thế mọi người đương nhiên phán đoán: nam nhân người nào mà không háo sắc đây? Khẳng định là vị thiên kim tiểu thư

của Minh gia này chẳng qua là tư

sắc quá mức bình thường. Tuy rằng nghe nói cũng là một mỹ nhân, nhưng trong hoàng cung chưa bao giờ thiếu mỹ nhân, nếu không thể vô cùng mỹ mạo đến khuynh nước khuynh thành thì rất khó có thể tồn tại đặc biệt nơi đáy mắt của hoàng đế.

Năm nay Tử Quang Đế đã ba mươi hai tuổi, hắn có bảy phi thϊếp, trừ Minh Ân Hoa mới hai mươi tuổi thì sáu vị thê thϊếp kia tuổi cũng không trẻ, người già nhất là ba mươi sáu tuổi, cũng chính là con gái của vυ" nuôi hoàng thượng,cũng là nữ nhân đầu tiên của hoàng đế, được gọi là Trương Phi; còn người trẻ tuổi nhất cũng hai mươi sáu, bảy tuổi, lấy ánh mắt của nam nhân mà đánh giá thử

thì

cũng coi như

lớn tuổi, tuy nhiên nhan sắc theo thời gian vẫn còn vương lại chút ít, cũng đủ thấy lúc tiến cung hẳn là một mỹ giai nhân, dung mạo vô cùng tuyệt trần, từng vị thần tử trong lòng đều nghĩ như vậy.

Hậu cung của hoàng đế vẫn còn khuyết một vị trí chính phi cùng bốn sườn phi (thϊếp phi), cái này thực sự

là một dụ hoặc vô cùng lớn,vì thế tâm tư mỗi người rất khó để không ngừng nghĩ ngợi về vấn đề này. Người đã có quyền thế to lớn thì càng tham muốn nhiều hơn; còn người vô thế muốn có quyền thế tự

nhiên không thể không thèm khát đạt được, cho nên

mấy tháng qua, trong cung lẫn ngoài cung đều trở nên thập phần náo nhiệt hỗn loạn, dù sao cũng không phải là chuyện ngoài ý muốn khó tưởng tượng của mọi người. Ai kêu hoàng đế đại lão gia không kiên nhẫn bị việc vặt này dây dưa tới lui, liền hai tay ngăn lại, ngay tại trước đại điện của buổi lâm triều trực tiếp tỏ vẻ:

“Việc cưới vợ

nạp thϊếp, đúng là thiên gia sản sự, cứ

giao cho các vị

chính phi trong cung xử

lý đi. Không cần lúc nào tại buổi lâm triều cũng đem ra bàn luận nữa, làm chậm trễ

dân sinh quốc gia đại sự.“


Chỉ tùy tiện nói mấy câu như thế thôi, nhưng khiến cho hậu cung mấy ngày nay lâm vào cảnh gà bay chó sửa nháo nhào, làm cho hậu cung nguyên bản tĩnh lặng như hồ nước liền biến thành biển lớn dậy sóng ầm ầm. Bái thϊếp như tuyết bay từ bốn phương tám hướng ào ào đổ xuống, làm cho ba vị chính phi đều không thể đào thoát

được khỏi những núi bái thϊếp cao lớn, ngay cả bốn sườn phi không có thực quyền cũng bị người tìm tới nhờ vả làm ơn nói giúp với các chính phi, nên cũng khiến cho các vị chính phi mệt nhoài với những lời nói đại loại như có thể đem khuê nữ thân thích nhà mình đến được hay không v..v.Phải nói rằng, thật sự vô cùng bát nháo.

– “Nương nương, nô tỳ đã xử

lý đại bộ

phận bái thϊếp, bất quá còn có một vài bái thϊếp chỉ

sợ

là không thể

tự

quyết định, không biết nương nương khi nào thì cho phép các nàng tiến cung bái kiến?”.


Tổng quản nữ quan Minh Thúy của Minh Hạ Cung cẩn trọng đứng một bên, cung kính giơ những tấm bái thϊếp đẹp đẽ

xin chỉ thị.

Minh Ân Hoa có chút bất đắc dĩ buông bút lông trong tay xuống, nàng lúc này thật vất vả mới có chút nhàn rỗi viết chữ một chút, ai ngờ mới chỉ thư thái được có một lúc, đã lại có chuyện đến phiền nhiễu rồi.

– “Là người có liên quan đến Minh gia phải không?” Không

cần nói ra cũng biết, những người mà Minh Thúy không cắt bỏ danh thϊếp bái kiến, khẳng định là thân thích của Minh gia, mà lại là những trưởng bối hàng đầu, thế nên không thể làm như

không thấy được.

– “Đúng vậy. Đặc biệt là là thím hai,

dì tứ

, và lục

a di

của Minh gia, còn lại tất cả

đều là các vị

đường tỷ. Tuy chỉ

là đường tỷ, nhưng

lớn hơn nương nương mười tuổi, nhà chồng cũng có bối cảnh, hơn nữa từ

trước đến nay thường lui tới Minh gia, cho nên không thể

trực tiếp cự

tuyệt.”


Minh Thúy nói xong, thấy chủ tử không nói lời nào, đành phải trấn an: “Kỳ thật nương nương như

vậy là chỉ

phải gặp ít người. Nô tỳ khi buổi sáng đến Nghị



có chuyện, vừa vặn trên đường đi gặp nữ

quan Vịnh Đông Cung, trên tay nàng ta cầm rất nhiều bái thϊếp, bên người còn dẫn theo hai cung nữ

nữa, trên tay cũng là cầm không xuể

danh thϊếp của rất nhiều người, đều là những người Vịnh Đông Cung nương nương phải cho tiếp kiến, vì thế

mới phải đến Nghị

Xá để

đăng ký. Thẳng đến khi nô tỳ

trởvề, nghe nói người của Vịnh Đông Cung vẫn còn lưu lại đó, mà mới sáng sớm Kim Thu Cung cũng đã phái cung nữ

đến Nghị

Xá, mượn một gian nhĩ phòng

không có người làm công để

đăng kí chuyện này. E rằng hai vị

nương nương trong ba tháng này đã tiếp kiến hàng trăm vị

phu nhân! Nhưvậy cũng thấy, những người mà có cơ

hội tiếp kiến nương nương không hẳn là nhiều, thôi thì gặp những người trong nhà mẹ

đẻ

ôn chút chuyện cũng là chuyện

không sai.”


– “Ngươi đem những bái thϊếp này đi đăng kí rồi sao?”

– Minh Ân Hoa vươn tay tiếp nhận bái thϊếp, trầm giọng hỏi.

– “Không đâu. Đều chưa đăng ký. Còn chưa có thỉnh nương nương xem qua, nô tỳ không dám tựmình chủ

trương.”-


Minh Thúy hầu hạ Minh Ân Hoa từ

thuở nhỏ, chính là người mà Minh Ân Hoa tín nhiệm cùng yêu thích nhất. Đương nhiên biết Minh Thúy làm việc luôn rất có đạo lý. Nàng ta có ba ưu điểm lớn nhất: trung thành, không tự

cho là thông minh, làm việc chừng mực điều tiết

rất khá, biết chuyện gì có thể tự quyết định, chuyện gì nên đi trước xin chỉ thị.

Minh Ân Hoa tùy tiện lật xem những tấm bái thϊếp này, nhìn danh tự, có thể ở trong đầu miêu tả xem sau cái tên này có thế lực nào chống lưng. Quả thật đều là những người phải cẩn thận ứng đối, nếu tùy tiện coi như không thấy, sẽ không khỏi gây ra bất bình, lời ra tiếng vào sẽ sinh ra không ít phiền toái. Nàng có thể mặc kệ những phiền toái đó, nhưng không nghĩ để những chuyện vô vị như vậy liên luỵ đến người nhà. Dù sao toàn bộ Minh gia từ

cao tới thấp, trừ phụ mẫu cùng huynh trưởng của mình, còn lại những người khác đối đối với nàng có rất nhiều oán hận thâm sâu.

Hai năm trước nàng ngoài ý muốn phải khâm điểm gả tiến hoàng thất, thế vào chỗ tỷ tỷ vì bạo bệnh mà chết,

lấy người vừa mới trở thành tân đế. Gả cho một bậc thiên tử tuổi còn trẻ lại anh tuấn, nghi thức hết sức xa hoa vinh sủng, điều đó đâu chỉ làm bức bối nử

tử

trong trong thiên hạ, ngay cả toàn bộ nữ

nhân trong gia tộc họ Minh, mặc kệ đã xuất giá hay chưa có nơi có chốn, đều bởi vậy mà đố kị không thôi, hận không thể gả cho vị đế vương, để mình có thể được hưởng những lễ nghi chỉ dành cho thê tử

của hoàng đế kia!

Vô luận nói như thế nào, vị trí thay thế tỷ tỷ này cũng không nên đến lượt nàng, mỗi người đều nghĩ như vậy.

Tỷ tỷ vốn thân thể vô cùng kém, sau khi liều cả sinh mạng, thật vất vả sinh hạ được một nhi nữ thì cơ thể liền suy yếu vô cùng nhanh chóng. Kế tiếp hai năm sau, cơ hồ không hề có chuyển biến. Tất cả mọi người đều biết thái tử phi đã bệnh quá nặng, không còn sống được bao lâu nữa. Khi đó Minh gia từ trên xuống dưới đã bắt đầu lo lắng thái tử phi nếu bất hạnh qua đời, ai sẽ là người thế vào vị trí của Minh Ân Nhã đây?

Toàn bộ gia tộc họ Minh có mười mấy vị tiểu thư khả ái có thể được lựa chọn, vì thế những bậc phụ mẫu của các thiên kim tiểu thư đều đem hết tài lực thần thông, hướng tộc trưởng tạo áp lực tiến cử, hạ quyết tâm muốn cho khuê nữ nhà minh có thể một bước hóa phượng hoàng. Cuối cùng, Minh Ân Hoa được chọn vào vị trí ấy, lại không thể cho mọi người trong gia tộc một cái giải thích hợp lý, vì thế những oán hận này cứ

càng ngày càng sâu hơn.

– “Ngày mai ngươi đi Nghị

Xá đăng ký đi. Hồi đáp lại bái thϊếp, các nàng tháng sau có thể

vào bái kiến.”
Không thể đem khẩu khí thật sự trong lòng phán ra, Minh Ân Hoa có điểm mỏi mệt, đối với Minh Thúy tùy tiện phân phó.

Minh Thúy kính cẩn trọng gật đầu, nghe theo:

– “Vâng, nô tỳ sẽ

an bài chu đáo.“


– “Còn có chuyện gì sao?”-

Cho rằng sự

tình đã xử lý xong, tính vùi đầu biên soạn giáo án cho trẻ nhỏ, lại thấy

Minh Thúy không lui ra,vì thế bình tĩnh ngẩng đầu lên, hỏi một câu.

– “Nô tỳ

xem qua thấy y phục mùa xuân của nương nương đã được sửa sang lại, hiện tại đã đểngười ta

đưa tới Hương Phòng huân hương bạc hà, buổi tối có thể

mặc được rồi.“


– “Buổi tối?”

Minh Ân Hoa suy nghĩ một chút, ẩn ẩn biết đây là cái ý tứ

gì, nhưng vẫn là không muốn chấp nhận nên hỏi:

“Hôm nay là ngày bao nhiêu rồi?“

– “Dạ, bẩm đã mười lăm,

nương nương.“


– “Là mười lăm sao? Ta nhớ

rõ đã nhiều ngày không thấy ánh trăng.“


– “Bởi vì thiên hợp với âm bốn năm ngày, đâu chỉ

buổi tối không thấy được mặt trăng, ngay cả

ban ngày cũng ít thấy ánh mặt trời.”


– Minh Thúy khẽ mỉm cười nói, làm bộ như không thấy được trên mặt chủ tử

hiện lên

một tia không tình nguyện khó phát hiện ra kia.

– “Gần đây Hoàng Thượng không phải vội vàng cùng quần thần thảo luận việc phía nam có giặc cỏnổi lên hoành hành? Tháng này cũng vô cùng bận rộn… Đúng rồi, Hoàng Thượng hôm qua

hoặc ngày hôm trước, đã đi Vịnh Đông Cung rồi chứ

?“


– “Không đâu, chỗ

Kính Sự

phòng không thấy ghi lại.“


Minh Ân Hoa nhẹ nhàng thở ra:

– “Tốt lắm, phân phó các cung nữ

không cần phải vội. Hoàng Thượng đêm nay sẽ

không lại đây, nếu đêm nay cần triệu hạnh,

nơi cần đi sẽ

là Vịnh Đông Cung, nếu không phải thì là đến chỗ

Trương Phi.“


– “Nương nương, vẫn là để

nô tỳ đem hết thảy đều chuẩn bị

tốt đi. Cho dù Hoàng Thượng không đến đây, thì từng việc nhỏ

trong Minh Hạ

Cung cũng không thể

qua loa, cái này gọi là đểngừa vạn nhất.“


– “Ngươi thật sự

chưa từ

bỏ

ý định.“


–“Tuy rằng nương nương phỏng đoán thật sự

có đạo lý, nhưng mà mặc kệ

nói như

thế

nào, mười lăm hàng tháng Hoàng Thượng đều đến Minh Hạ

Cung. Cho dù tháng này bởi vì triều chính bận rộn, ban ngày có chút hỗn loạn, Hoàng Thượng khả

năng sẽ

không thể

đến được,

nhưng quả

thật

dù sao tháng này còn chưa có sủng hạnh Vịnh Đông Cung nương nương, nếu không đi đến chỗ

nàng ta, trực tiếp đi tới Minh Hạ

Cung, thì cũng có chút phiền toái. Nói vậy Hoàng Thượng cùng nương nương đều không hy vọng để

chuyện như

vậy làm rung

chuyển hậu cung…“


– “Thúy, ta nghĩ ngươi hôm nay nhất định thực rảnh rỗi.”

Nhịn không được thở dài. Rõ ràng không phải người luôn thao thao bất tuyệt, hôm nay như thế nào nói nhiều như

thế?

– “Nương nương…”

Nương nương đừng như thế có được không a? Thân là thị tỳ thân cận nhất của nương nương, hai người tình nghĩa thâm hậu như vậy, thấy nương nương kháng cự như thế, liền muốn cùng nương nương hàn huyên.

– “Ta hiểu được ý tứ

của ngươi. Dù sao, ngươi cứ

làm chuyện của ngươi, mà ta tự

nhiên sẽ

phối hợp.“


Tuy rằng hai người đều biết cả một ngày cật lực chuẩn bị ra đủ loại, chung quy sẽ chỉ là phí công. Nhưng nếu không thì biết làm thế nào đây? Thân là chính phi của hoàng đế, vốn còn có rất nhiều trách nhiệm cùng nghĩa vụ. Những trách nhiệm cùng nghĩa vụ này, mặc kệ thích hay không thích, đều phải tận lực hoàn thành cho tốt.

Nói chung là mất đến cả một ngày chờ chờ đợi đợi, sau đó từ chạng vạng một đường đợi cho đến tận đêm khuya, thẳng đến khi hoàng đế rời bước vàng đến, hoặc hoàng đế phái người truyền tới nói không thể đến, mới coi như là hoàn thành xong trách nhiệm. Khi đó mới có thể dỡ xuống lớp son phấn trên mặt, một đầu đầy châu ngọc, cởi tám tầng hoa phục, làm cho hạ nhân đem rượu ngon trà thơm bỏ xuống, làm cho tiểu phòng bếp có thể tắt lửa, như thế toàn thể mọi người trong Minh Hạ Cung mới yên tâm lui xuống nghỉ ngơi… Mà tính ra, bất quá thân là chính phi, so với những việc khác phải làm mà nói, chuyện hàng tháng phát sinh một lần như thế này thì chỉ là việc bé nhỏ không đáng kể.

Vì việc nước sông dâng quá cao ảnh hưởng đến chuyện cày bừa vụ xuân, hoàng đế sau khi hạ triều, đã ra lệnh cho một số vị đại thần lưu lại ngự thư phòng tiếp tục thảo luận. Buổi thảo luận này nói tới tận buổi chiều, nếu không nghe được tiếng bụng không thể kìm nén kêu to của các vị đại thần, Tử

Quang đế thật đúng là không cảm thấy đói.

Phân phó cho ngự trù phòng làm những đồ ăn đơn giản, đưa đến ngự thư phòng vừa dùng bữa vừa thảo luận. Đợi cho tình hình tai nạn phía nam được xử lý, cứu tế, đắp bờ đều có phương án, hướng giải quyết cụ thể rõ ràng sau, đã là lúc trời tối đen. Vốn định lưu lại các vị đại thần cùng ăn bữa tối, nhưng sau khi nhìn thấy trên mặt bọn họ biểu tình tâm lực hao tổn quá độ, quyết định hảo tâm buông tha bọn họ, để cho bọn họ hảo hảo về nhà nghỉ ngơi. Còn có nhiều việc quốc gia đại sự

sau này phải xử lý thảo luận, thôi thì trước vẫn là đối xử tử tế nhiều hơn đã vậy.

Chậm rãi sai thái giám đem bữa tối đưa vào ngự thư phòng, tùy tiện ăn một chút, sau khi uống ngụm trà, tinh thần Tử

Quang Đế vẫn còn tốt, liền ngồi trở lại ngự án, cần mẫn xử lý phê duyệt tấu chương lu bù một đống trên bàn. Thật ra tân đế

không cần phải quá lao lực ngay từ đầu nhưng mà vì muốn vững vàng nắm giữ

triều chính thật tốt, trong thời gian ngắn nhất làm cho triều thần quen với phương thức chấp chính của hắn, cũng làm cho chính mình có thói quen điều hành đất nước nên Tử Quang Đế vô cùng chăm chỉ.

Đối với hắn,

trong lúc này quốc sự

nặng nề không đợi người, chuyện hắn phải làm còn nhiều lắm, hận không thể một ngày có ba mươi sáu canh giờ, hắn không có thời gian mệt, không có thời gian ngủ, tự nhiên càng không có thời gian suy nghĩ chuyện nhỏ đêm nay muốn đi triệu hạnh vị

phi thϊếp nào.

Có khi trong chốc lát nghỉ tay uống một ngụm trà, sẽ suy nghĩ những chuyện không thoải mái xẹt qua đầu, tỷ như bất đắc dĩ nhớ tới công việc trước mắt còn nhiều vô số như vậy, thế mà các hạ thần của hắn lại còn liều mạng muốn đem tuyệt thế mỹ nữ lấp đầy hậu cung cho hắn, giống như là hắn có nhiều thời gian để làm cái chuyện hái hoa ấy lắm. Tuy rằng nói nam nhân không ai là không háo sắc, nhưng ở vị trí này của hắn, hắn có những việc trọng đại phải xử lý hơn là việc gần gũi nữ sắc.

Dù không phải là muốn làm bậc đế vương thiên cổ tài đức sáng suốt, nhưng nói thực ra, thuần túy làm một quân vương an phận, đã là chuyện phi thường hao phí khí lực rồi. Chính vì thế hai năm này, mỗi ngày hắn đều ở lại ngự thư phòng giải quyết sự vụ, suy nghĩ đến quốc gia chỉnh thể tình huống có gì thay đổi. Đương nhiên, nếu quốc gia thay đổi quá lớn, thì cũng không phải là chuyện tốt, phải khiến thần dân nhận thức được mới là lý tưởng trị quốc chi đạo tốt nhất…

– “Hoàng Thượng, tổng quản Kính Sự

phòng đến xin chỉ

thị, hôm nay là ngày mười lăm, người có đến Minh Hạ

Cung hay không ạ?”


Một tên thái giám ở bên cạnh vừa nhu thuận châm trà, vừa cẩn thận hỏi.

– “Minh Hạ

Cung?”


Tâm tư hoàn toàn không nghĩ đến việc này. Thuận miệng hỏi lại:

“Lần trước trẫm đã triệu hạnh người nào?“

– “Bẩm Hoàng Thượng, là sườn phi Phong Uyển Dương, sau đó từ

nửa đêm về

sáng lại đến

Thừa Kiền điện.”


– “Luân tự



nói, kế

tiếp nên là ai?“


– “Chiếu theo trên luân tự

mà nói, chính là Vịnh Đông Cung.“


– “Tối nay là mười lăm…”

Tử

Quang đế suy nghĩ một chút. Đối với hậu cung mưa móc phân phối, hắn luôn tận lực công bằng, cũng không thích đem chuyện luật lệ gia sự

gây nên hỗn loạn quá mức, hơn nữa sau khi làm hoàng đế, loại sự tình này càng nên cẩn thận hơn, trước kia từng có giáo huấn làm cho hắn khắc sâu ghi nhớ.

Hắn đã có nhiều việc phải làm lắm rồi, hơn nữa không thể chịu đựng được việc nữ nhân đem hậu cung biến thành một đoàn rối loạn. Tốt nhất hết thảy ấn định quy củ, như vậy

thiên hạ cũng được thái bình. Vì thế cuối cùng quyết định nói:

“Thông tri xuống, nửa đêm trước tới Vịnh Đông Cung, nửa đêm về

sáng thì tới Minh Hạ

Cung. Ngày mai giờ

mẹo ở

Minh Hạ

Cung rời

đi.”


– “Vâng‘’

Thái giám tiếp nhận chỉ thị, lập tức rời khỏi ngự thư phòng, đến bên ngoài truyền lời cho Kính Sự phòng.