Chương 3: Đệ Nhất Thế Gia

Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh

đạp ngọn sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông

đánh đuổi quân Ngô, cởi ách nô ɭệ cho nhân dân

chớ không chịu khom lưng làm tì thϊếp cho người ta.

Bà Triệu - Triệu Thị Trinh

Sông Thiên Đức

Bến Lục Đầu

Bến Lục Đầu là nơi hội tụ của sáu con sông lớn tỏa đi khắp vùng núi phía bắc và duyên hải phía đông của Đại Cồ Việt. Bốn con sông lớn từ thượng nguồn phía bắc đổ về đây được gọi là Tứ Đức. Trong đó Nhật Đức, Minh Đức đổ về từ Lạng Châu, Nguyệt Đức đổ về từ Thái Nguyên, Thiên Đức đổ về từ sông Nhị Hà, hay còn gọi là sông Cái. Từ đây, các con sông lại chia hai hướng thành sông Kinh Môn đổ ra cửa Bạch Đằng và sông Thái Bình đổ xuống Sơn Nam ra biển. Từ bến Lục Đầu, đi đường sông Thiên Đức là con đường thủy ngắn nhất để ngược dòng về Thăng Long. Chín con thuyền lớn nữa cũng đang nối đuôi nhau tiến về kinh đô. Cũng vẫn là đội hình một soái thuyền, hai mông đồng và sáu lâu thuyền đi cuối. Soái thuyền này trên mũi cũng cắm ba lá cờ, một lá cờ tang, một lá cờ ngũ sắc thêu chữ Đào màu đen trên nền đỏ thắm, và một lá cờ thêu hình Thái Long, cũng là một loài rồng nhưng là rồng biển da trơn, được cho là thường bơi dưới nước chứ không bay được, loài rồng thường là hiệu tượng của các bậc công thần thạo thủy chiến, thường được khắc lên mũi thuyền của gia tộc và được xăm ở bắp đùi của thủy quân.

Trên khoang soái thuyền có bóng một người đàn ông trung niên dáng vẻ cường tráng, mặt vuông chữ điền, mặc áo viên lĩnh tía, đầu vấn khăn, tóc mai bám xuống tận gần cằm, nước da ngăm đen cháy nắng nhưng đôi mắt sáng lóa tinh anh, đang nhẹ bước trên hành lang. Đoạn người đàn ông dừng lại ở cửa một căn phòng trên khoang, gõ nhẹ mấy tiếng lên cánh cửa gỗ rồi cất tiếng thanh âm vừa phải :

- Công chúa! Công chúa! Là ta đây, đã sắp đến kinh thành, mời công chúa dậy sửa soạn.

Từ trong phòng, một giọng nữ trong trẻo mềm mại vọng ra :

- Phải là quan Thái bảo đó không, chàng cứ vào, chỗ này còn có ai đâu, chúng ta có gì phải ngại với nhau nữa.

Người đàn ông khẽ kéo cửa gỗ tiến vào trong phòng. Căn phòng rộng rãi kê một chiếc bàn thấp cùng một chiếc phản lớn. Trên phản là một người phụ nữ tầm gần bốn mươi, xiêm y vẫn chưa thay, vẫn chỉ có chiếc yếm ở trên và thường ở dưới, da trắng ngọc ngà, dáng người yểu điệu như tiên giáng trần. Nàng ngước đầu dậy từ chiếc gối thêu loan phụng, mắt sáng như sao, mũi cao miệng thắm thật là bậc quốc sắc thiên hương, đoạn nàng cất giọng :

- Nãy ta có nhìn qua cửa sổ tuy trời tối nhưng cũng thấy thuyền vừa đi qua bến Lục Đầu, với tốc độ thế này thì chắc cũng phải cả canh giờ nữa mới đến kinh đô, hay là chàng ôm lấy ta một lúc nữa được không, ta chênh vênh quá.

- Ta còn việc phải thu xếp với đám quân binh, vả lại cũng sắp tới bến cuối, nếu có người trông thấy e rằng không tiện. Người đàn ông đáp.

Người phụ nũ thấy thế che miệng cười khúc khích, dáng điệu lại càng thanh tao thoát tục. Người đàn ông hỏi lại :

- Có gì đáng cười sao ?

- Đường đường là quan Thái bảo mà lại phải đêm hôm luồn mò, sáng ra lại phải rời sớm. Ngài là cánh tay phải của Đông cung thái tử, chống Tống phá Chiêm xa trường thì không sợ lại sợ chuyện the phòng. Ngài chưa vợ, ta thì mất chồng đã lâu, có gì phải ngại. Người phụ nữ vừa mỉm cười vừa nói.

Người đàn ông khẽ cười đáp :

- Mọi việc đâu có đơn giản là sợ hay không sợ công chúa, nhưng thời điểm này là chưa thích hợp. Đang có chuyện lớn ta e sẽ có người dòm ngó, nói ra nói vào ảnh hưởng đến đại cục. Mọi việc cấm cung đều phải cẩn trọng. Muôn lẽ cư xử giao thiệp trong cung ta đều cẩn thận tham vấn công chúa cũng chẳng phải là để giữ phép tắc hòa khí hay sao. Thời điểm này không nên trở thành đề tài công kích của đám nho gia, thậm chí những đám chẳng phải nho gia cũng rất muốn kiếm cớ để công kích Thạc Phụ này đấy.

- Mọi việc chàng đều hỏi ta nghe ta, nhưng là mọi việc của chàng, còn việc của ta, thứ ta mong muốn thì chàng có nghe ta đâu. Chàng nói cứ như thể ta có thể sai khiến chàng làm điều gì vậy. Những gì Thái bảo muốn làm thì Thái bảo mới làm, ta chắc chắn điều đó. Đây, ngay lúc này ta muốn vòng tay người đàn ông của mình một vài khắc thôi mà có được đâu. Mà đám nho gia thì làm sao? Công chúa nói đến đó thì cười khẩy rồi tiếp.

- Có những điểm nho học rất được việc, nhưng cũng có những điểm chẳng hợp lý với người Nam chút nào, ta nghĩ Đại Cồ Việt cần con chữ, mặt chữ thôi, còn giáo lý thì phải xét, cho nên Thái bảo cũng không phải để tâm quá nhiều đến sự công kích đâu. Ví như đàn bà cứ bị áp ba cái tam tòng vào cổ, ta thấy nó chỉ để làm lợi cho đám quân gia trưởng, xâm lược, cướp nước thôi, và nó đại diện cho lòng tham, cho nghiệp chướng khao khát sở hữu không giới hạn. Rồi ta sẽ sớm tâu với tân vương tác thành cho hai chúng ta, để xem bọn nho gia nó lợi hại cỡ nào và ý kiến gì.

Người đàn ông nhẹ nhàng bước lên phản, chàng ngồi xuống, vòng tay ôm lấy người phụ nữ, đặt lên trán nàng một nụ hôn rồi nói :



- Chắc chắn sẽ đến thời điểm đó, đến ngày đó chính ta sẽ nói và xin tân vương tác thành cho chúng ta. Nàng lại thắng ta rồi đó, ta đã lại phải lên giường ôm lấy người phụ nữ của mình dù còn bao nhiêu việc đang chờ ta ngoài kia.

Người phụ nữ rúc đầu vào ngực người đàn ông rồi vừa cười vừa buông tiếng thủ thỉ :

- Ta thử chàng thôi, trêu đùa chút cho tỉnh ngủ thôi, thế này là ta mãn nguyện lắm rồi, thôi chàng đi lo sắp xếp binh bị đi, ta cũng dậy sửa soạn vào lễ. Ta mong lại sớm được trong vòng tay thái bảo nằm thuyền ngắm núi ngắm biển ngoài khơi Vân Đồn, giờ ta chỉ cần có thế thôi.

Người đàn ông mỉm cười buông tay đứng dậy, đoạn bước ra cửa chàng quay lại nhìn người phụ nữ gật đầu, cả hai cười với nhau một tiếng nữa rồi mới khép của phòng rời xuống cuối thuyền.

Người phụ nữ là An Quốc công chúa Lý Thiềm Hoa, con gái cả của Thánh thượng, mười tám năm trước đã được gả làm vợ của khai quốc công thần Thái sư á vương Đào Cam Mộc. Nhưng được sáu năm Thái sư qua đời, để lại người vợ trẻ với gia tộc họ Đào trấn thủ cả một vùng sông nước rộng lớn kéo dài từ Cổ Loa ra đến Hải Đông. Đào Thái sư vốn đã là công thần của tiền triều là nhà Lê, sau lại thu xếp để nhà Lý thay ngôi nhà Lê một cách êm thấm, máu không vương một giọt, dân không than một câu, công đức lớn lao nên được truy phong tước Nghĩa tín hầu chức Thái sư á vương, nghĩa là sau một người trên muôn người vậy. Gia tộc họ Đào ngày một lớn mạnh, nhân tài ngày càng xuất hiện nhiều, tàu thuyền và kho bãi lấp kín mạng lưới đường thủy từ đất phong là thành Cổ Loa qua lộ Hồng đến hết cả lộ Hải Đông, trở thành Gia tộc đứng hàng thứ nhất trong Thế gia bát tộc ở triều đại nhà Lý, danh giá chỉ xếp sau nhà họ Lý.

Người đàn ông là người em trong họ của Thái sư, hiện đương chức Thái bảo, tên là Đào Thạc Phụ. Họ Đào sau khi á vương qua đời thì có người em họ Đào Thạc Phụ này là có triển vọng lớn hơn cả. Thái bảo văn võ song toàn, tính tình khẳng khái chính trực, lại đặc biệt giỏi về thuyền bè, mạnh về thủy chiến. Về văn ngài từng dẫn đầu đoàn sứ thần sang thăm viếng nhà Tống ngay từ năm thứ Thuận Thiên thứ ba, về võ thì bảy năm sau khi đi sứ Tống ngài đã làm phó đô đốc cho cuộc chinh phạt Chiêm Thành của thái tử, tiếng tăm lẫy lừng nam bắc.

Gia tộc họ Đào còn có hai người con riêng của thái sư là Đào Lôi, Đào Điện đều được phong tướng trấn giữ vùng đất quan yếu Hải Tần Phòng Thủ ở cửa biển Bạch Đằng, nơi mà năm xưa đã làm nên chiến thắng lẫy lừng chống quân Nam Hán của Ngô Vương Quyền và trận đại phá quân Tống của Đại Hành hoàng đế. Thêm nữa, hai người em họ của thái bảo là thiếu bảo Đào Xử Trung và Trừng Hải quân hỏa đầu tướng Đào Văn Lỗi cũng toàn là những nhân vật có quyền cao chức trọng, rất được thánh thượng và triều đình tín nhiệm.

Thái bảo Đào Thạc Phụ rảo bước xuống mạn đuôi soái thuyền, mở của vào một khoang phòng khác, trong phòng có đám mấy chục người xếp hàng vuông vắn, đều cởi trần đóng khố, tóc cắt ngắn, đầu trọc hoặc búi tóc gọn gàng, bắp đùi xăm thái long. Có một người đứng riêng ra ở đầu hàng, dáng người thon gọn nhưng vô cùng săn chắc, đùi phải xăm thái long, vai trái xăm hình mặt trống đồng, mặt mũi sáng sủa, trán cao dựng đứng nhưng thân hình đen nhãy. Người đó thấy quan Thái bảo tới thì hô lớn :

- Tham kiến quan Thái bảo.

Đám quân cởi trần chắp thay hô theo. Đào Thạc Phụ gật đầu rồi tiến tới trước mặt vỗ nhẹ lên vai người đứng đầu :

- Câu liêm, thừng xích, vũ khí, quân dược đã chuẩn bị đầy đủ chưa Văn Lỗi.

Người đứng đầu đám người đó chính là Trừng Hải quân hỏa đầu Đào Văn Lỗi. Là một hỏa đầu tướng của cấm quân nhưng được biệt phái khâm mệnh đi trấn Hải Đông, phụ tá cho Thái bảo. Văn Lỗi khẽ cúi đầu :

- Mọi việc đã xong, chỉ chờ vào việc lớn, thưa Thái bảo.

- Lần này khó ở chỗ có biến mới động binh, còn bằng không thì án binh bất động rồi rút. Ngâm mình dưới hào vất vả cho anh em quá. Đào Thạc Phụ nói tiếp.

Văn Lỗi đáp :

- Quân lệnh như sơn, đám bề tôi cúc cung tận tụy đến chết còn không từ nan huống hồ là việc nhỏ này, mong Thái bảo yên tâm, Đào Văn Lỗi cùng các anh em lấy đầu mình ra đảm bảo kỷ luật không sai một ly một tấc.

Thái bảo gật đầu hô lớn :

- Tốt, anh em vất vả rồi. Đại sự quốc gia, vận mệnh Đào tộc lần này xin phó thác cả cho các anh em.

Cảm đám người đồng thanh hô lớn :

- Tuân mệnh quan thái bảo.

Đoàn thuyền một lúc cũng đến bến Hà Khẩu, trưởng kỳ trưởng hiệu hô xong thủ tục, Đào Thạc Phụ hiên ngang đứng ở mũi soái thuyền giơ Đồng Cổ Lệnh lên cho đám quan biên tịch thấy rồi hô lớn :

- Thuyền cung ứng cho thủy trại Da^ʍ Đàm, phong bế.



Đám biên tịch cúi đầu tuân mệnh, đoàn thuyền men theo sông Tô tiến đến trại thủy quân ở hồ Da^ʍ Đàm theo cửa Thụy Chương. Mỗi con thuyền khi cập vào cảng, đám quan quân mặc giáp trên thuyền đều trám vào những vị trí bảo vệ để xung quanh nội bất xuất, ngoại bất nhập. Đào Thái bảo úy lạo thêm anh em tướng sĩ thủy binh trong khoang soái thuyền một chút nữa rồi lên khoang đón An Quốc công chúa cùng đám công hầu gia tướng lên chiếc thuyền nhỏ nhập thành từ cửa Thụy Chương.

Qua cửa Thụy Chương, cả đoàn men theo dòng Ngọc Hà để xuôi xuống cập bến lên cầu đá dẫn vào hoàng thành Thăng Long theo cửa Quảng Phúc phía tây dự đại lễ. Thái bảo bước lên bến đầu tiên, kế đến là Thiếu bảo Đào Xử Trung, tiếp theo là An Quốc Công Chúa. Công chúa đã ăn vận chỉnh tề, đầu búi theo lối Ca Lăng Tần Già, đội quan vàng hình hoa sen, tóc tết vấn quanh đầu, khoác ngoài đối khâm trắng, mặc trong giao lĩnh trắng thêu chim phượng, chân đi hài thêu hoa. Bước theo phía sau công chúa là hai thanh niên trẻ trạc độ đôi mươi đều mặc viên lĩnh đầu cuốn khắn màu tía như Thái bảo với Thiếu bảo. Hai người mặt mũi khôi ngô, thân hình vạm vỡ lại giống nhau như đúc chính là hai con song sinh của Thái sư á vương với người vợ trước tên là Đào Lôi và Đào Điện, tuổi ngoài đôi mươi nhưng đã thân mang trọng trách, trấn thủ vùng cửa sông Bạch Đằng. Khi mấy người cùng đoàn tùy tùng đều đã lên bến rảo bước tiến về hoàng thành thì quan Thái bảo quay lại chỗ của công chúa với hai anh em Lôi Điện rồi nói :

- Hai cháu tháp tùng kế mẫu vào cung trước, ta với Thiếu bảo có việc cần bàn rồi sẽ đi theo sau.

Lôi Điện chắp tay gật đầu rồi cùng đám tùy tùng theo sau An Quốc công chúa tiến về cửa tây.

Quan Thiếu bảo theo bước Thái bảo dừng lại ở đầu cầu đá, xung quanh chỉ còn vài tâm phúc đứng hộ vệ. Thiếu bảo Đào Xử Trung trẻ hơn Thái bảo cũng phải gần chục tuổi nhưng mặt mũi đoan chính, đôi mắt tinh anh, thân hình cường tráng. Đoạn Đào Thái bảo đặt tay lên lưng Xử Trung, ghé sát đầu khẽ nói :

- Hôm nay đại lễ lại có việc lớn, dù việc xảy ra thế nào ta cũng muốn em ngay sau lễ phải gấp rút về Vân Đồn lo việc. Tình hình xây dựng đại cảng, đóng tàu hay thương mại dưới đó trông vào một tay Xử Trung cả. Không có người tin cẩn ở đó, ta lo sẽ có biến, mà có biến ở Vân Đồn không xử lý được kịp thời thì khác gì bồi một nhát dao vào tim Đào tộc. Ta với Văn Lỗi chắc vẫn phải lưu ở kinh ít hôm, sau đó ta sẽ qua Vĩnh An rồi mới lại về Vân Đồn.

Thiếu phó khẽ gật đầu cúi xuống :

- Em xin tuân mệnh quan Thái bảo, bản thân rời châu lên kinh thời điểm này em cũng cảm thấy không yên tâm. Nào đám thủ lĩnh khê động, đám cự phú thương gia, đám thương nhân ngoại quốc rồi cả đám thuyền bè Trần gia đều là những kẻ óc đầy mưu lược, công việc giao cho đám trẻ sợ lại quá tầm kiểm soát. Sau lễ em xin tức tốc lên đường.

Thái phó Đào Thạc Phụ nhìn thẳng vào mắt Xử Trung và nói :

- Có Thiếu bảo ở đó ta rất an lòng, nhọc công cho em quá. Mong em bền gan yên chí chờ đến khi thực hiện được di nguyện của các bậc tiền nhân, xây dựng được Bạc dịch trường trên biển đảo ở Vân Đồn rồi chuyển đại cảng từ Trường Yên và Diễn Châu lên thì cả vùng biển từ Hải Đông, Vân Đồn, Vĩnh An sẽ trở thành khu liên hoàn cảng nối với Khâm, Liêm, Quảng và khống chế cả vùng Đông Hải. Hàng hóa hay tàu bè đều phải ghé vai nhờ cậy Đại Cồ Việt. Thế và lực của nước ta khi đó khác nào trở thành Đại Đường của phương Nam, Thăng Long sẽ như là Trường An trên biển, dẫu có là Đại Tống ngay sát cạnh, hay Thiên Trúc, Đại Thực tít xa xôi thì cũng phải vị nể ta thêm đôi phần. Cùng với đó thì Đào tộc sẽ có một vị trí vững chắc hơn nữa trong cục diện của quốc gia, sẽ trở thành thế gia trong các thế gia, cự tộc của các cự tộc, không phụ sự mong mỏi, bồi đắp của thánh thượng và Thái sư á vương.

- Vâng, anh trưởng, dẫu gan óc lầy đất em cũng xin được góp sức vào đại nghiệp của các bậc tiền nhân, của Đại Cồ Việt. Thiếu bảo chắp tay cúi đầu buông một tiếng kiên nghị.

Vân Đồn là vùng hải đảo ở bờ biển Đông Hải, phía đông bắc Đại Cồ Việt, bao gồm hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ. Vốn là vùng đất quan yếu lại nằm ở cửa ngõ giao thông nên từ thời vua Lê Đại Hành nhà Lê đã có đặt đồn Vân ở chân núi Vân để trấn giữ vùng biển phía đông bắc này. Vân Đồn có ba đảo lớn hình dài, hướng tây bắc đông nam, nằm ngoài rìa nhóm các đảo nhỏ phía trong và cách phủ Hải Đông một dải nước. Phía nam ba đảo ấy lại có một đảo nhỏ ngăn thành lối vào gọi là cửa Vân Đồn. Với địa thế có hàng trăm hòn đảo như những ngọn núi nhô lên từ giữa biển, Vân Đồn vừa rất tiện cho việc bố trí quân phòng thủ khi có giặc lại vừa thuận lợi cho việc tàu bè tới neo đậu giao thương. Những ngọn núi và hàng trăm hòn đảo vừa là những tấm bình phong che chắn rất tốt cho các cảng khi có bão, lại vừa là một mê cung hiểm trở để phục kích kẻ địch khi có chiến tranh. Đắc địa như thế khiến người ngoại quốc đến đảo không thể nào thám thính quân tình nước ta một cách dễ dàng nhưng giao thương buôn bán thì lại vô cùng là thuận lợi. Các vịnh để xây cảng lớn hơn rất nhiều, sâu hơn rất nhiều và đón được những con tàu lớn nhất trên biển lúc bấy giờ. So với các cảng cũ như Trường Yên, Ái Châu, Diễn Châu thì vượt trội hơn hẳn mà bể thì lặng, nước thì sâu, thông thương với Khâm, Liêm, Quảng hay các cảng ở miền đông nam đều vô cùng thuận tiện.

Nhà Lý tiếp nối nhà Lê đã lập một kế hoạch biến Vân Đồn thành một Bạc dịch trường lớn nhất của Đại Cồ Việt với một hệ thống các bến, các cảng khổng lồ để chuyển đại cảng quốc gia từ Diễn Châu lên nhằm thông thương với người ngoại quốc và đón được những con tàu lớn nhất, mạnh nhất của những người bạn từ phương xa. Kế hoạch này được hoàng gia cùng họ Đào, họ Trần, họ Lê, những dòng tộc mạnh nhất về đóng thuyền và thương mại biển và họ Lưu, họ Ngô, cự tộc về quy hoạch công trình cùng đảm trách. Từ ngày nhà Lê đóng quân bảo vệ trị an, người ngoại quốc đã đến Vân Đồn rất nhiều. Đến khi nhà Lý đặt kế hoạch tham vọng này, Bạc dịch trường chưa hoàn thiện hết tàu thuyền ngoại quốc đã ra vào như mắc cửi. Giấy tờ quan biên quản lý ghi chép về thấy thuyền từ phương bắc như các nước Đại Tống, Cao Ly, Phù Tang cũng có, thuyền từ các nước ngoài khơi Đông Hải như Bột Nê (Brunei), Trảo Oa (Java), Tam Phật Tề (Malay), Sách Mã Tích (Temasik) cũng có luôn, thuyền từ Chiêm Thành, Xiêm La, Cao Miên (Khmer), Bồ Cam (Myanmar) cũng qua lại, rồi thuyền từ Thiên Trúc, Ba Tư. Nhưng những thuyền buôn to lớn nhất và giàu mạnh nhất phải kể tới những thuyền buôn từ xứ Đại Thực, thuyền của những thương nhân rất xa ở phía Tây mà họ tự gọi mình là người Ả rập.

Nói đến Đại Thực và thương mại thì nhất định phải nói về con đướng tơ lụa. Đó là con đường buôn bán huyền thoại đã nổi tiếng cả ngàn năm kết nối giữa phương đông và phương tây để vận chuyển hàng hóa, đặc biệt là mặt hàng tơ lụa, một thời chỉ có ở Trung Hoa. Con đường huyết mạch nối Trung Hoa với các nước phía tây thông qua hành lang Hà Tây với phương tiện chính là lạc đà và điểm tập kết ở Trường An, không chỉ trở thành con đường giao thương mà còn là con đường giao lưu văn hóa giữa phương đông và phương tây nữa. Nhà Hán là triều đại đầu tiên của Trung Hoa khai phá con đường này dưới thời vua Hán Võ Đế và khiến Trường An khi đó trở thành yết hầu phân phối sự phồn vinh cho cả Trung Nguyên. Sau này nhà Hán suy vong, con đường dần rơi vào quên lãng cho đến thời nhà Tùy lại bắt đầu hồi sinh và sau đó nhà Đường phát triển con đường lên đến đỉnh cao. Nhà Đường bằng binh lực của mình đã chinh phạt và mở rộng cương vực của mình sang đến viễn tây tận bờ sông Đát La Tư (Talas) và đã mang lại cho Trường An và cả Trung Nguyên một sự thịnh vượng chưa từng có trong lịch sử. Nhà Đường nhận thức rất rõ về lợi ích của con đường tơ lụa nên đã cố gắng chiếm hữu độc quyền con đường bằng chiến tranh và họ cũng phần nào hiện thực hóa được tham vọng đó cho đến khi phải chạm trán với người Đại Thực tại bờ sông Đát La Tư (Talas).

Hắc Y Đại Thực là cái tên mà người Trung Hoa dùng để chỉ những người Hồi giáo Ả rập. Đối với người Hán, những người theo đạo Hồi hay mặc áo đen, cầm cờ đen của nhà Đại Thực là những kẻ đã chống lại thiên ý và đánh tan mười vạn đại quân nhà Đường khiến cho tham vọng tây tiến của Đại Đường phải dừng lại ở sông Đát La Tư và thế là họ dùng cái tên Hắc Y Đại Thực để chỉ về sắc dân đó. Tuy nhiên nhà Đại Thực với tên chính xác là nhà Abbas vốn chỉ là một thực thể rất lớn trong một cộng đồng Hồi giáo Ả rập còn lớn hơn thế. Sau trận Đát La Tư, mười vạn liên quân của Đại Đường thì chỉ còn hai vạn có thể trở về, nhà Abbas bắt sống được khoảng một vạn tù binh và đám tù binh này đóng góp quan trọng cho việc phổ biến công nghệ làm giấy giá rẻ và những công nhệ khác của Trung Hoa cho nhà Abbas. Có giấy được sản xuất với số lượng khổng lồ với giá rẻ và cùng với những triều vua vô cùng anh minh sáng suốt, nhà Abbas nhanh chóng thúc đẩy việc giáo dục, đẩy mạnh in ấn để phổ biến tri thức và sớm trở thành một thế lực rất lớn ở phía tây làm đối trọng với Đại Đường phía đông. Kinh đô của họ đặt ở thành Baghdad, thành phố mà theo tiếng Phạn nghĩa là “Quà tặng của Thiên Chúa”. Họ xây “Ngôi nhà của sự thông thái” để những học giả có trí tuệ từ mọi nơi, không phân biệt xuất xứ từ Ả Rập, Ba Tư hay Thiên Trúc, không phân biệt tôn giáo đạo Hồi, đạo Phật, hay đạo Thiên Chúa đến để sinh sống, học tập, nghiên cứu và phát minh. Và nhờ vậy, Baghdad trở thành trung tâm của tri thức và phồn vinh, xứng đáng là một trong những kinh đô huy hoành nhất từ tây sang đông. Sau này, họ cũng sai sứ sang thiết lập quan hệ với Đại Đường và thậm chí còn gửi bốn ngàn quân sang giúp Đại Đường dẹp loạn An Sử. Bốn ngàn quân này sau đó cũng ở lại định cư tại Trung Nguyên luôn và vị thế vẫn luôn được coi trọng.

Thế rồi nhà Đường cũng sụp đổ, con đường tơ lụa đó lại bị chia cắt ra nhiều mảnh, bị kiểm soát bởi nhiều thế lực cát cứ. Trường An lại một lần nữa chỉ còn là một khu vực hoang tàn bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự đốt phá của những thế lực du mục phía tây và bắc Trung Nguyên. Con đường tơ lụa cũ giờ đã trở nên không còn an toàn và thiết thực nữa. Nhà Abbas cũng không còn là thế lực mạnh như xưa nhưng những người Hồi giáo Ả Rập với nền tảng tri thức của mình đã tìm ra một phương án khác để kết nối giao thông đông tây, đó là đường biển. Họ đã phát minh ra loại thuyền buồm vô cùng to lớn và chắc chắn, cùng với những kiến thức rất uyên bác về thiên văn, thủy văn và khí hậu đã khiến họ tạo nên những thương đoàn cự phách ở trên biển trong gió mùa và con đường tơ lụa trên biển được ra đời như thế. Con đường tơ lụa trên biển này còn khiến chi phí đi lại rẻ hơn, hàng hóa mang được nhiều hơn và thuận tiện hơn. Những thương đoàn đi vòng xuống đường biển phía nam Ả Rập, qua biển Thiên Trúc, biển Bồ Cam, Xiêm La, Tam Phật Tề, Trảo Oa, Chiêm Thành, Đại Cồ Việt rồi vào Trung Hoa và mặt hàng chủ đạo cũng không chỉ còn là tơ lụa nữa mà còn thêm gốm sứ, hương liệu và rất nhiều mặt hàng khác. Và trong các cảng để làm trạm nghỉ ở các nước đó, thì Vân Đồn được coi là cảng có tiềm năng lớn nhất và phù hợp nhất cho những chuyến hải trình. Những vị đại sư Đại Cồ Việt vốn đi nhiều hiểu rộng, đi từ Sơn Đông Trung Thổ đi tới Thiên Trúc Thổ Phồn, lại làu thông kinh sử bắc nam nên đã sớm cùng các bậc đại trí, đại tài nước nam chuẩn bị sẵn cho công cuộc chuyển đổi vĩ đại này, có lẽ âu cũng là ý trời xui khiến. Và nhà họ Đào được hoàng gia Đại Cồ Việt cùng các bậc thông thái nước Nam đặt trọn niềm tin.

Lại nói về Đào thái bảo, khi cùng thiếu bảo Đào Xử Trung tiến tới cổng thành, thái bảo quay lại nhìn em và nói :

- Đệ cùng đám tùy tùng vào thành trước, vẫn chưa tới lễ đâu, có khi ta phải sang thành đông có chút chuyện đã.

- Lại đến Vương Lâu sao anh trưởng, lần nào hồi kinh anh cũng đều qua Vương Lâu, anh thật kiên nhẫn, sao lại cứ phải khổ thế, rồi lại mang tiếng ra. Xử Trung vừa nhẹ lắc đầu vừa nói.

- Làm cha làm chú thấy người nhà sai đường có thể nhắm mắt làm ngơ sao, ta nhất định phải thuyết phục được nó hồi tâm chuyển ý. Thái bảo nói đoạn thở dài. Thôi em vào thành trước đi, lát ta sẽ vào sau bằng cửa phía đông, ta đi luôn cho kịp, nếu đưa được nó về dự tang thiên tử thì là tốt nhất.

Thiếu bảo lại nhẹ lắc đầu rồi cũng thở dài một tiếng, xong đoạn rải bước tới chân cổng thành nói với một viên lính canh cổng :

- Dắt ngựa đến cho quan Thái bảo.

Mặt trong thành vốn là nơi quan viên buộc ngựa để đi bộ nhập thành, tên lính y lệnh chạy vào mặt trong thành dắt ra một con ngựa. Thái bảo lên ngựa rồi quay lại nhìn Xử Trung khẽ mỉm cười gật đầu cảm kích rồi kéo cương phi luôn, đám tùy tùng nhà họ Đào cùng với Xử Trung nhìn bóng Thái bảo đi khuất rồi cũng kéo nhau một lượt vào thành.