Chương 15: Brienne

Họ đi qua cái xác đầu tiên cách ngã tư khoảng một dặm.

Cái xác lủng lẳng dưới một cành cây chết, thân cây đen lại và chằng chịt vết sẹo do sét đánh. Lũ quạ ăn xác thối đang rỉa mặt anh ta, còn lũ sói thì mở tiệc trên hai bắp chân lủng lẳng gần mặt đất. Bên dưới đầu gối của cái xác chỉ còn lại trơ xương và giẻ rách… cùng với một bên giày bị nhai nát, một nửa ngập trong bùn và rêu mốc.

“Trong miệng anh ta có cái gì vậy?” Podrick hỏi.

Brienne phải cố gắng lắm mới có thể nhìn cái xác. Mặt anh ta xanh xám và nhợt nhạt, còn miệng thì mở to và sưng phồng. Ai đó đã nhét một hòn đá trắng lởm chởm vào miệng anh ta. Một hòn đá, hoặc là…

“Muối,” Septon Meribald nói.

Đi được năm mươi thước nữa, họ thấy cái xác thứ hai. Lũ động vật ăn xác thối đã xé nát anh ta, vì thế những phần còn lại của cái xác vung vãi trên nền đất bên dưới một chiếc thòng lọng cũ sờn treo

trên cành một cây du. Brienne suýt nữa đã bỏ qua cái xác, nếu Chó không đánh hơi thấy và sục vào cỏ để ngửi cho kỹ hơn.

“Mày ngửi thấy gì thế, Chó?” Ser Hyle xuống ngựa và đi theo con chó, sau đó tìm được một cái mũ nửa đầu. Đầu lâu của người bị gϊếŧ vẫn còn ở nguyên trong đó cùng với lũ giòi và bọ cánh cứng.

“Thép tốt,” anh ta tuyên bố, “và không bị bẹp nhiều cho lắm, nhưng hình con sư tử thì đã mất đầu. Pod, cậu có muốn một chiếc mũ giáp không?”

“Không phải cái đó. Cái đó toàn giòi bên trong.”

“Rửa đi là được, nhóc ạ. Cậu tính toán như con gái vậy.”

Brienne cau mày nhìn anh ta. “Cái mũ to thế, làm sao nó đội vừa.”

“Thằng nhóc sẽ lớn mà.”

“Tôi không muốn,” Podrick nói. Ser Hyle nhún vai và ném chiếc mũ hỏng với cái chỏm hình sư tử trở lại đám cỏ. Chó sủa nhặng xị và chạy tới nhấc một chân lên cạnh một gốc cây.

Sau đó, cứ chưa đầy một trăm thước họ lại thấy một cái xác. Chúng lủng lẳng dưới những cây tần bì, tổng quán sủi, sồi, phong, thông, du, những cây liễu già nua và những cây hạt dẻ oai vệ. Mỗi cái

xác đều đeo một cái thòng lọng quanh cổ và đung đưa trên dây thừng làm bằng sợi gai dầu. Miệng mỗi người đều bị nhét đầy muối. Một số người mặc áo choàng xám hoặc xanh hoặc đỏ thẫm, tuy nhiên mưa gió đã làm chúng bạc phếch đến nỗi màu của chúng na ná như nhau. Những kẻ khác có phù hiệu thêu trên ngực áo. Brienne nhìn thấy rìu, mũi tên, vài con cá hồi, một cây thông, một chiếc lá sồi, một số bọ cánh cứng, gà bantam, một cái đầu lợn lòi và năm, sáu cây đinh ba. Brienne nhận ra họ đều là tàn binh tập hợp lại từ hàng chục đội quân khác nhau, là phần thừa mà các lãnh chúa bỏ lại.

Một số xác chết hói đầu và một số để râu, có người già người trẻ, người lùn người cao, người béo người gầy. Chúng trương phềnh, những khuôn mặt bị gặm mòn và thối rữa, vì thế trông cái xác nào

cũng na ná như nhau. Trên một chiếc giá treo cổ, tất cả những người bị treo đều là anh em. Brienne đã đọc điều đó trong một cuốn sách, nhưng cuốn nào thì cô không nhớ.

Cuối cùng, chính Hyle Hunt là người lên tiếng trước những gì tất cả bọn họ đều nhận ra. “Đây là những kẻ đã cướp phá Saltpans.”

“Có lẽ Đức Cha đã quá khắc nghiệt với họ,” Meribald nói. Ông từng là bạn của tu sĩ già ở thị trấn này.

Việc họ là ai không làm Brienne bận lòng bằng một nửa so với việc ai đã treo cổ họ. Người ta nói thòng lọng là phương tiện xử tử mà Beric Dondarrion và nhóm cướp của ông ta yêu thích. Nếu vậy,

người được gọi là Lãnh chúa Tia Chớp có thể đang ở gần đây.

Chó sủa vang, Septon Meribald nhìn quanh rồi nhíu mày. “Chúng ta có nên đi nhanh hơn không? Mặt trời sắp lặn rồi, và xác chết không phải là bạn đồng hành lý tưởng vào ban đêm đâu. Khi còn sống họ đều là đám người xấu xa và nguy hiểm cả đấy. Ta không biết liệu cái chết có làm cho họ tốt đẹp hơn

không.”

“Điều này thì chúng tôi không đồng ý,” Ser Hyle nói. “Với những gã như thế này, chết là cách tốt nhất để trau dồi bản thân.” Nói rồi anh ta thúc giày vào ngựa và họ đi nhanh hơn một chút.

Càng đi xa cây cối càng thưa dần, nhưng xác chết thì không. Khu rừng dần được thay bằng những vũng lầy, cành cây được thay bằng giá treo cổ. Từng đàn quạ kêu thất thanh và bay lên từ những cái xác khi những người khách bộ hành tới gần, rồi quay trở lại khi họ đi qua. Chúng đều là những kẻ độc ác, Brienne tự nhủ, tuy nhiên cảnh tượng đó vẫn khiến cô buồn bã. Cô cố nhìn mỗi cái xác một lượt để

tìm xen có khuôn mặt nào thân thuộc hay không. Có một số tên cô nghĩ đã gặp ở Harrenhal, nhưng tình trạng hiện tại của họ khiến cô không dám chắc. Chẳng ai đội mũ của Chó Săn, và hiếm có cái xác nào đội mũ, bất kể là mũ gì. Hầu hết họ đều bị lột sạch vũ khí, áo giáp và ủng trước khi bị treo lên.

Khi Podrick hỏi tên của nhà trọ nơi họ sẽ nghỉ qua đêm, Septon Meribald hăm hở vồ lấy câu hỏi đó như thể để quên đi những cây thông lính khinh khủng hai bên đường. “Nhà Trọ Cũ, một số người gọi

như vậy. Có một nhà trọ đã ở đó hàng mấy trăm năm, nhưng nhà trọ này mới chỉ được xây từ thời

Jaehaerys đệ nhất, ông ấy cũng là người cho xây dựng vương lộ. Nghe nói Jaehaerys và hoàng hậu của ngài thường ngủ lại ở đó trong các chuyến đi. Ngày xưa, nhà trọ đó từng được biết đến dưới cái tên đầy tự hào là Hai Vương Miện, cho đến khi người chủ quán xây một tháp chuông và đổi tên thành Nhà Trọ Rung Chuông. Sau đó nhà trọ được chuyển cho một hiệp sĩ què tên là Long Jon Heddle, người chuyển sang làm thợ rèn sau khi không thể cầm kiếm nữa vì quá già nua. Ông ta rèn một chiếc biển hiệu mới để trong sân, một con rồng ba đầu bằng sắt được ông treo lên một chiếc cột bằng gỗ. Con vật quá to nên ông phải làm thành hơn chục mảnh rồi ghép với nhau bằng dây thừng và dây kim loại. Khi gió thổi, những mảnh kim loại sẽ va vào nhau leng keng, nên nhà trọ được biết đến rộng rãi dưới cái tên Rồng Leng Keng.

“Con rồng vẫn ở đấy chứ?” Podrick hỏi.

“Không,” Septon Meribald nói. “Khi con của người thợ rèn già đi, một tên con hoang của Aegon Đệ Tứ nổi loạn chống lại anh trai mình và dùng một con rồng đen làm cờ hiệu.

Khi đó những vùng đất này thuộc về Lãnh chúa Darry, và ông ấy rất trung thành với nhà vua. Hình ảnh con rồng đen bằng sắt khiến ông giận dữ, vì thế ông chặt chiếc cột đi và chặt con rồng làm nhiều mảnh, sau đó ném xuống sông. Nhiều năm sau, một trong những cái đầu rồng dạt vào Đảo Im Lặng, nhưng lúc đó thì nó đã chuyển sang màu đỏ vì gỉ sét. Chủ nhà trọ không bao giờ treo biển mới nữa, vì thế mọi người dần quên con rồng đi và gọi đó là Nhà Trọ Ven Sông. Ngày nay, dòng Trident chảy bên dưới cửa sau của nhà trọ và một nửa số phòng trọ được xây bên trên mặt nước đó. Người ta nói khách trọ có thể quăng dây ra ngoài để bắt cá hồi. Có một chiếc phà cập bến ở đây để khách đi đường có thể

tới thị trấn của Lãnh chúa Harroway và Whitewalls.”

“Trident nằm ở phía nam, trong khi chúng ta đang cưỡi ngựa về hướng bắc và tây… không phải về phía dòng sông mà đang đi ra xa nó.”

“Đúng vậy, tiểu thư,” tu sĩ nói. “Con sông đã đổi dòng. Vào khoảng bảy mươi năm trước. Hay tám mươi nhỉ? Đó là khi người ông già nua của Masha Heddle quản lý nơi này. Chính bà ấy là người kể cho tôi tất cả những câu chuyện lịch sử này. Masha là một phụ nữ tốt bụng, thích ăn lá chua và bánh

mật ong. Khi không có phòng dành cho tôi, bà ấy sẽ để tôi ngủ bên lò sưởi và không bao giờ để tôi lên đường mà không có chút bánh mỳ, pho mát và vài cái bánh ngọt.”

“Giờ bà ấy có còn là chủ nhà trọ không?” Podrick hỏi.

“Không. Lũ sư tử đã treo cổ bà ấy. Sau khi chúng bỏ đi, tôi nghe nói một trong các cháu trai của bà ấy cố mở lại nhà trọ đó, nhưng chiến tranh đã làm cho con đường trở nên quá nguy hiểm cho khách bộ

hành bình thường, vì thế ở đó rất vắng khách. Cậu ta bắt đầu nuôi gái điếm, nhưng ngay cả điều đó cũng không bảo đảm mạng sống cho cậu ta. Tôi nghe nói một lãnh chúa nào đó cũng đã gϊếŧ cậu ta rồi.”

Ser Hyle nhăn nhó tỏ vẻ thất vọng. “Tôi chưa bao giờ nghĩ là quản lý một nhà trọ lại nguy hiểm chết người đến như vậy.”

“Chỉ có dân thường mới là những người gặp nguy hiểm khi các lãnh chúa lớn tham gia trò chơi vương quyền của họ,” Septon Meribald nói. “Có phải vậy không, Chó?” Con Chó sủa lên đồng ý.

“Thế,” Podrick hỏi, “giờ nhà trọ đó có tên không?”

“Dân chúng gọi đó là nhà trọ ngã tư. Anh Cả bảo tôi hai cháu gái của Masha Heddle đã mở cửa nhà trọ trở lại.” Ông giơ gậy lên. “Nếu các vị thần tốt bụng, đám khói bay lên đằng sau những người bị

treo cổ này chính là từ ống khói của nhà trọ đó.”

“Họ có thể gọi nơi đó là Nhà Trọ Giá Treo Cổ,” Ser Hyle nói.

Dù dưới cái tên gì thì đó cũng là một nhà trọ lớn ba tầng bên con đường lầy lội đầy bùn đất, các bức tường, tháp nhỏ và ống khói làm bằng đá trắng mịn tỏa ánh sáng nhợt nhạt ma quái trên nền trời xám. Chái nam của ngôi nhà được xây trên những trụ chống lớn bằng gỗ nặng nề bên trên một vùng trũng nứt nẻ đầy lau sậy và cỏ chết khô. Một chuồng ngựa lợp mái rạ và một tháp chuông nằm ở phía bắc ngôi nhà. Bao quanh toàn bộ nhà trọ là một bức tường thấp bằng đá trắng, nứt nẻ, đổ vỡ và phủ

đầy rêu mốc.

Ít ra người ta đã không đốt trụi nó. Ở Saltpans, họ chỉ thấy cảnh chết chóc và hoang tàn. Đến khi Brienne và các bạn mình đi phà từ Đảo Im Lặng tới, những người sống sót đã bỏ đi hết, còn người chết

thì đã về với đất, nhưng tàn tích còn lại của thị trấn thì vẫn còn nằm đó, hoang tàn và đầy tro bụi. Không khí vẫn còn vương mùi khói, tiếng kêu của mòng biển trôi trên đầu họ nghe như âm thanh của con người, như tiếng ỉ ôi than khóc của một đứa trẻ lạc đường. Ngay cả tòa lâu đài trông cũng hoang liêu và cô quạnh, xám ngoét như thị trấn tro bụi xung quanh. Tòa lâu đài bao gồm một pháo đài vuông trong một lớp tường bao, được xây dựng để nhìn thẳng ra bến cảng. Nó đóng chặt cửa khi Brienne và mọi người dắt ngựa từ phà lên, không có gì chuyển động trên chốc tường thành, ngoại trừ những lá cờ. Chó sủa inh ỏi và Septon Meribald gõ cửa chính bằng chiếc gậy dài của ông suốt mười lăm phút mới có một phụ nữ ra mở cửa và tiếp chuyện họ.

Lúc này chiếc phà đã rời đi và trời bắt đầu mưa. “Tôi là tu sĩ, thưa quý cô,” Meribald lên tiếng, “còn đây là những khách bộ hành trung thực. Chúng tôi muốn thuê phòng nghỉ để trú mưa và một nơi

ấm áp bên lò sưởi tối nay.” Người phụ nữ không hề cử động kể từ khi ông xuất hiện. “Nhà trọ gần nhất nằm ở ngã tư, về phía tây ấy,” cô ta trả lời. “Chúng tôi không muốn có người lạ ở đây. Đi đi.” Khi cô ta quay vào, cả những lời cầu nguyện của Meribald, tiếng sủa của Chó lẫn tiếng chửi rủa của Ser Hyle đều không thể đem cô ta quay lại. Cuối cùng họ phải ở cả đêm trong rừng, bên dưới một cái chòi làm bằng cành cây đan lại với nhau.

Tuy nhiên, ở nhà trọ ngã tư vẫn có sự sống. Ngay cả trước khi đến cổng, Brienne đã nghe thấy tiếng nện búa, âm thanh tuy nhỏ nhưng đều đặn. Cô thấy có tiếng rung của thép.

“Một lò rèn,” Ser Hyle nói. “Hoặc là họ có thợ rèn, hoặc là bóng ma của chủ nhà trọ cũ đang rèn một con rồng nữa bằng sắt.” Anh ta thúc ngựa. “Tôi hy vọng họ sẽ có một con ma nấu ăn nữa. Chỉ cần

một con gà quay giòn là thế giới lại tươi đẹp trở lại.”

Sân nhà trọ là một biển bùn nâu bám chặt vào móng ngựa. Tiếng leng keng của sắt thép nghe rõ hơn

ở đây, và Brienne đã nhìn thấy quầng sáng đỏ của bễ rèn xa xa ở phía bên kia dãy chuồng ngựa, đằng sau một chiếc xe bò gãy một bánh. Cô còn nhìn thấy cả ngựa trong chuồng và một cậu nhóc đang chơi đánh đu trên dây xích han gỉ của chiếc giá treo cổ cũ đứng lù lù trong sân. Bốn bé gái đang đứng trên cửa vòm của nhà trọ và nhìn cậu bé, đứa nhỏ nhất không quá 2 tuổi và tя͢ầи ͙ȶя͢υồиɠ như nhộng. Đứa lớn

nhất 9 hay 10 tuổi đang vòng tay qua ôm đứa bé.

“Này các gái,” Ser Hyle gọi, “chạy đi gọi mẹ về đây.”

Thằng bé nhảy xuống và chạy về phía chuồng ngựa. Bốn bé gái đứng đó với vẻ bồn chồn. Sau một hồi, một đứa nói, “Cháu không có mẹ,” một đứa khác thêm vào, “Cháu đã từng có, nhưng người ta gϊếŧ bà ấy rồi.” Đứa lớn nhất trong bọn bước lên phía trước, đẩy đứa nhỏ núp sau váy mình. “Các người là ai?” cô bé hỏi.

“Những khách bộ hành lương thiện muốn tìm chỗ trú. Tên ta là Brienne, còn đây là Septon Meribald, người rất nổi tiếng ở vùng ven sông. Thằng nhóc này là cận vệ của ta, Podrick Payne, còn

hiệp sĩ này là Ser Hyle Hunt.”

Tiếng quai búa đột ngột dừng lại. Cô bé đứng trên bậc cửa nhìn họ chăm chăm, trên mặt hiện vẻ lo lắng của một đứa trẻ 10 tuổi. “Tôi là Willow. Mọi người cần giường ngủ đúng không?”

“Giường, bia và thức ăn nóng để nhét đầy bụng nữa,” Ser Hyle Hunt nói khi xuống ngựa. “Cô bé là chủ nhà trọ à?”

Bé gái lắc đầu. “Là chị gái Jeyne của tôi. Nhưng chị ấy không ở đây. Ở đây tất cả đều phải ăn thịt ngựa. Nếu ngài đến tìm điếm thì không có đâu. Chị tôi đuổi họ đi hết rồi. Tuy nhiên chúng tôi có

giường. Có một số giường lông, nhưng chủ yếu là giường rơm.”

“Và tất cả đều có bọ chét, ta dám chắc như vậy,” Ser Hyle nói.

“Các người có tiền để trả không? Có đồng bạc không?”

Ser Hyle phá lên cười. “Bạc ấy à? Để đổi lấy một cái giường và một cái đùi ngựa trong một đêm ấy à? Nhóc định ăn cướp tiền của chúng ta chắc?”

“Chúng tôi chỉ nhận bạc thôi. Nếu không các người có thể ngủ trong rừng với người chết.” Willow liếc nhìn con lừa, trên lưng chất đầy những thùng và bọc. “Đó có phải thức ăn không? Các người lấy

chúng ở đâu vậy?”

“Ở Maidenpool,” Meribald nói. Chó sủa.

“Nhóc vẫn hay tra hỏi khách như thế này hả?” Ser Hyle hỏi.

“Chúng tôi không có nhiều khách. Không giống như trước chiến tranh. Những ngày này trên đường toàn chim sẻ, thậm chí là những kẻ tồi tệ hơn.”

“Tồi tệ hơn là sao?” Brienne hỏi.

“Bọn trộm cắp,” giọng một cậu bé vọng ra từ phía chuồng ngựa. “Cướp giật.”

Brienne quay người và nhìn thấy một bóng ma.

Renly. Không cú đánh thấu tim nào có thể mạnh hơn thế. “Lãnh chúa?” cô hổn hển.

“Lãnh chúa nào?” Thằng nhóc hất một món tóc đen lòa xòa trước mắt ra phía sau. “Tôi chỉ là thợ rèn thôi.”

Brienne nhận ra cậu nhóc không phải Renly. Renly chết rồi. Renly đã chết trong tay ta khi chàng 21 tuổi. Còn đây chỉ là một cậu bé. Một cậu bé trông giống Renly trong lần đầu tiên ngài ấy đến Tarth.

Không, trẻ hơn. Hàm của cậu bé vuông hơn, lông mày rậm hơn. Renly gầy và uyển chuyển, trong khi cậu bé này có đôi vai chắc khỏe và cơ bắp trên tay phải giống như mọi thợ rèn khác. Cậu ta mặc một chiếc tạp dề da dài, nhưng đằng sau nó là khuôn ngực trần. Râu đen lún phún mọc trên má và cằm cậu ta, còn mái tóc đen dày mọc dài quá tai. Tóc của vua Renly cũng đen như than giống như vậy, nhưng tóc ngài luôn được gội sạch và chải chuốt. Thỉnh thoảng ngài cắt tóc ngắn, nhưng đôi khi ngài để dài và buông hờ trên vai, hoặc buộc nó phía sau đầu bằng một sợi ruy băng vàng, nhưng tóc ngài chưa bao giờ rối bết mồ hôi. Và tuy họ có đôi mắt xanh sâu thẳm như nhau, nhưng đôi mắt Lãnh chúa Renly lúc nào cũng ấm áp, trìu mến và đầy niềm vui, trong khi mắt cậu bé này chỉ chứa đầy nghi ngờ và tức giận.

Septon Meribald cũng nhìn thấy điều đó. “Chúng tôi vô hại mà, chàng trai. Khi Masha Heddle sở hữu nhà trọ này, bà ấy luôn chuẩn bị một cái bánh mật ong cho tôi. Đôi khi bà ấy còn cho tôi giường

khi nhà trọ không quá đông.”

“Bà ấy chết rồi,” cậu bé nói. “Lũ sư tử đã treo cổ bà ấy.”

“Treo cổ có vẻ là môn thể thao rất được ưa chuộng ở đây,” Ser Hyle Hunt nói. “Nếu có đất ở quanh đây, ta sẽ trồng gai dầu, bán dây thừng và kiếm bội tiền.”

“Những đứa bé này,” Brienne nói với đứa tên là Willow. “Chúng có phải... em gái em không? Em trai? Họ hàng?”

“Không.” Willow nhìn cô chằm chằm, cô hiểu ánh nhìn đó. “Chúng chỉ là... Tôi không biết... Thỉnh thoảng lũ chim sẻ đem chúng đến đây. Có đứa tự tìm đường đến. Nếu chị là phụ nữ, sao chị lại ăn mặc

như đàn ông?”

Septon Meribald trả lời. “Tiểu thư Brienne là một nữ chiến binh đang đi làm nhiệm vụ. Tuy nhiên bây giờ cô ấy cần một cái giường khô ráo và một đống lửa ấm áp. Chúng ta cũng vậy. Xương cốt già

nua của ta cho biết trời sắp mưa đến nơi rồi. Các cháu có giường cho chúng ta không?”

“Không,” cậu bé thợ rèn nói. “Có,” cô bé tên Willow nói.

Họ liếc nhìn nhau. Sau đó Willow giậm chân. “Họ có thức ăn, Gendry. Bọn trẻ đang đói.” Cô bé huýt sáo, và những đứa trẻ khác đột nhiên ào ra như phép thuật; một loạt thằng bé rách rưới tóc tai bù xù bò ra từ dưới mái vòm, các bé gái lén lút xuất hiện đằng sau ô cửa sổ nhìn ra sân. Một số đứa cầm nỏ đã được lắp sẵn tên và kéo dây.

“Người ta có thể gọi đây là Nhà Trọ Cung Nỏ,” Ser Hyle gợi ý.

Nhà Trọ Mồ Côi có vẻ hợp lý hơn, Brienne nghĩ.

“Wat, ra giúp họ dắt ngựa,” Willow nói. “Will, đặt hòn đá xuống, họ không hại chúng ta đâu. Tansy, Pate, đi lấy thêm củi về đốt lửa. Jon Penny, ra giúp vị tu sĩ với đống bọc kia. Chị sẽ dẫn họ lên

phòng.”

Cuối cùng họ được ở ba phòng cạnh nhau, mỗi phòng đều có một giường lông, một bình tiểu ban đêm và một cái cửa sổ. Phòng của Brienne còn có cả lò sưởi. Cô trả thêm tiền để có thêm chút củi.

“Tôi sẽ ngủ trong phòng tiểu thư, hay phòng của Ser Hyle?” Podrick hỏi khi cô đang mở cửa sổ chớp.

“Đây không phải là Đảo Im Lặng,” cô nói với cậu nhóc. “Ngươi có thể ở đây với ta.” Sáng mai cô dự định hai người họ sẽ tự lên đường. Septon Meribald sẽ tới Nutten, Riverbend, và thị trấn của Lãnh chúa Harroway, nhưng Brienne thấy chẳng có ích gì khi tiếp tục đi theo ông ấy. Ông ấy đã có Chó bầu bạn, và Anh Cả đã thuyết phục cô rằng cô sẽ không tìm thấy Sansa Stark dọc vùng Trident. “Ta muốn dậy trước khi mặt trời lên, trong khi Ser Hyle vẫn còn đang ngủ.” Brienne vẫn chưa tha thứ cho anh ta chuyện ở Highgarden... và như chính anh ta đã nói, Hunt chẳng có lời thề nào liên quan đến Sansa cả.

“Chúng ta sẽ đi đâu, ser? À, tiểu thư?”

Brienne chưa có câu trả lời cho cậu bé. Họ đã đến được ngã tư, nơi vương lộ, đường ven sông và cao lộ gặp nhau. Cao lộ sẽ dẫn họ về phía đông, qua những ngọn núi để tới Thung Lũng Arryn, nơi dì

của tiểu thư Sansa cai trị cho đến khi bà qua đời. Ở phía tây là đường ven sông chạy dọc theo Red Fork tới Riverrun, nơi ông của Sansa đang bị bao vây nhưng vẫn còn sống. Hoặc họ có thể đi theo vương lộ về phía bắc, vượt qua Song Thành và vùng Neck đầy vũng bùn lầy. Nếu cô có thể tìm đường qua Moat Cailin, dù ai đang cai trị nó, thì vương lộ cũng sẽ đưa họ tới Winterfell.

Hoặc ta sẽ theo vương lộ đi về phía nam, Brienne nghĩ. Ta có thể chạy về Vương Đô, thú nhận với Ser Jaime rằng ta thất bại, trao lại kiếm cho anh và tìm thuyền đưa ta về nhà ở Tarth, như Anh Cả gợi

ý. Ý nghĩ đó thật cay đắng, nhưng một phần trong cô vẫn mong mỏi được về Evenfall với cha cô, và một phần khác tự hỏi liệu Jaime có an ủi cô nếu cô gục mặt lên vai anh mà khóc hay không. Không

phải đó là những việc đàn ông muốn làm hay sao? Bảo vệ những người phụ nữ mỏng manh yếu đuối?

“Ser? Tiểu thư? Tôi vừa hỏi, chúng ta sẽ đi đâu ạ?”

“Xuống sảnh chung ăn tối.”

Trong sảnh chung tràn ngập trẻ em. Brienne cố đếm chúng nhưng chúng không đứng yên lấy một giây nào, nên có đứa cô đếm tới hai ba lần, trong khi có đứa không được đếm lần nào cả. Cuối cùng

cô đành từ bỏ. Họ đã đẩy bàn vào cạnh nhau thành ba hàng dài, và các cậu bé lớn hơn đang đánh vật với những chiếc ghế dài ở phía sau. Lớn hơn ở đây có nghĩa là 10 đến 12 tuổi. Gendry trông giống một người đàn ông trưởng thành nhất, nhưng chính Willow mới là người ra lệnh như thể con bé là nữ hoàng trong lâu đài của mình và những người khác chỉ là nô ɭệ.

Nếu cô bé có dòng dõi cao quý, bản tính tự nhiên của cô bé sẽ là ra lệnh, và người khác sẽ tự giác tuân theo. Brienne tự hỏi liệu Willow có đơn giản như vẻ bề ngoài của mình không. Cô bé quá nhỏ và quá bình thường, không hề giống như Sansa Stark, nhưng tuổi của cô bé xấp xỉ em gái Sansa, và ngay cả phu nhân Catelyn cũng nói Arya không có vẻ đẹp của chị mình. Tóc nâu, mắt nâu, gầy gò... làm sao

có thể? Tóc Arya Stark màu nâu, cô nhớ lại, nhưng Brienne không dám chắc về màu mắt của cô bé. Nâu và nâu, phải không nhỉ? Hay cô bé không hề chết ở Saltpans?

Bên ngoài, tia sáng cuối ngày cũng dần tắt. Trong nhà, Willow sai đốt bốn cây nến mỡ và bảo lũ trẻ trông chừng để ngọn lửa cháy cao và ấm áp. Mấy cậu nhóc giúp Podrick Payne dỡ hàng từ lưng lừa xuống và mang cá thu muối, thịt cừu, rau, các loại hạt và pho mát vào nhà, trong khi Septon Meribald

xuống bếp để chuẩn bị nấu cháo. “Trời ơi, chỗ cam của ta hỏng hết rồi, không biết từ giờ đến mùa xuân ta có tìm được quả nào nữa không,” ông nói với một cậu bé. “Cậu đã ăn thử cam bao giờ chưa, nhóc? Bóp và mυ"ŧ lấy thứ nước ngọt ngào của nó?” Khi cậu bé lắc đầu, vị tu sĩ xoa đầu cậu bé. “Vậy thì mùa xuân tới ta sẽ mang cho cậu một quả, nếu cậu ngoan ngoãn giúp ta khuấy cháo.”

Ser Hyle tháo ủng ra để sưởi chân bên ngọn lửa. Khi Brienne ngồi xuống bên cạnh, anh ta hất đầu về phía bên kia của căn phòng. “Có vệt máu khô trên nền nhà nơi Chó đang ngửi. Vết máu đã được cọ

rửa, nhưng máu đã thấm sâu vào gỗ và không có cách nào xóa chúng đi được.”

“Đây là nhà trọ nơi Sandor Clegane gϊếŧ ba người anh em của hắn,” cô nhắc anh.

“Biết là thế,” Hunt đồng ý, “nhưng ai dám chắc chúng là những người đầu tiên chết ở đây... có thể chúng là những người cuối cùng.”

“Anh sợ mấy đứa trẻ con này chắc?”

“Bốn đứa có thể coi là ít, mười là quá nhiều. Đằng này ở đây có cả một đội quân. Trẻ em lẽ ra phải được quấn tã và treo lên tường cho đến khi con gái có ngực và con trai đủ lớn để có râu mà cạo.”

“Tôi thấy tội nghiệp cho chúng. Bọn chúng đều mất cả cha lẫn mẹ. Một số thậm chí phải chứng kiến cha mẹ bị gϊếŧ.”

Hunt đảo mắt. “Tôi quên mất là mình đang nói chuyện với một phụ nữ. Trái tim cô cũng mềm yếu

như món cháo của vị tu sĩ kia. Có thể như vậy sao? Đâu đó bên trong, ả đàn bà cầm kiếm này vẫn là một người mẹ lúng túng trước việc sinh nở. Những gì cô thực sự muốn là một đứa bé hồng hào ngậm vυ" mẹ.” Ser Hyle nhăn nhở. “Nghe nói cô sẽ cần một người đàn ông để làm được việc đó. Tốt nhất là một người chồng. Tại sao không phải là tôi nhỉ?”

“Nếu anh vẫn muốn giành được khoản tiền cá cược…”

“Thứ tôi muốn giành được là cô, con gái duy nhất của Lãnh chúa Selwyn. Tôi biết có những gã chịu cưới một cô vợ ngớ ngẩn hoặc một đứa bé còn đang bú mẹ, chỉ để có được tài sản bằng một phần mười của Nhà Tarth. Tôi không phải là Renly Baratheon, tôi thừa nhận điều đó, nhưng ưu điểm của tôi

là còn sống. Một số người sẽ nói đó là ưu điểm duy nhất của tôi. Một đám cưới sẽ phục vụ cho mục đích của cả hai chúng ta. Đất đai cho ta, và một tòa lâu đài đầy những đứa như thế này cho cô.” Anh ta chỉ tay về phía lũ trẻ. “Tôi có khả năng mà, đảm bảo với cô đấy. Theo tôi biết thì ít nhất tôi đã có một đứa con hoang. Đừng sợ, tôi sẽ không bắt cô phải nuôi nó đâu. Lần gần đây nhất đến thăm con bé, mẹ nó đổ cả nồi súp lên người tôi.”

Cổ cô đỏ lên. “Cha tôi mới có 45 tuổi. Không quá già để lấy vợ lần nữa và sinh con trai với bà vợ mới.”

“Như thế quá nguy hiểm... nếu cha cô kết hôn lần nữa, cô dâu mới lại mắn đẻ, và đứa bé là con trai thì... Tôi vừa đặt một khoản cược sai lầm.”

“Và mất hết tiền. Chơi trò đó với ai khác đi, ser.”

“Tại cô chưa chơi trò đó bao giờ nên mới nói vậy thôi. Một khi thử, cô sẽ có cái nhìn khác ngay. Trong bóng tối, cô cũng sẽ xinh đẹp như bao phụ nữ khác. Đôi môi cô được sinh ra để trao những nụ

hôn.”

“Môi là môi,” Brienne nói. “Môi nào chẳng như nhau.”

“Và mọi đôi môi đều dùng để hôn,” Hunt vui vẻ đồng ý. “Tối nay đừng cài cửa phòng, tôi sẽ lẻn vào giường cô và chứng minh những gì tôi nói là thật.”

“Nếu anh vào thật, khi quay ra anh sẽ là một thái giám đấy.” Brienne đứng dậy và bỏ đi.

Không để ý đến bé gái đang tя͢ầи ͙ȶя͢υồиɠ bò dọc chiếc bàn, Septon Meribald hỏi liệu ông có thể hướng dẫn lũ trẻ đọc kinh trước khi ăn hay không. “Được,” Willow nói và lôi đứa bé đang bò trên bàn

xuống trước khi nó với tới nồi cháo. Họ chụm đầu vào nhau và cảm ơn sự hào phóng của Đức Cha,

Đức Mẹ... tất cả mọi người trừ cậu bé tóc đen ở xưởng rèn. Cậu ngồi khoanh tay trước ngực và nhìn trừng trừng vào những người khác đang cầu nguyện. Brienne không phải là người duy nhất để ý. Khi mọi người cầu nguyện xong, Septon Meribald nhìn sang phía bên kia bàn và nói, “Con không yêu quý các vị thần sao, con trai?”

“Không phải các vị thần của ông.” Gendry đột ngột đứng dậy. “Tôi phải làm việc.” Cậu ta đi ra mà không ăn một miếng nào.

“Cậu ta có yêu quý vị thần nào khác không?” Hyle Hunt hỏi.

“Thần Ánh Sáng,” một cậu bé gầy nhẳng khoảng 6 tuổi nói.

Willow đánh cậu nhóc bằng chiếc muỗng. “Ben To Mồm. Thức ăn đây. Em ăn đi, không được nói leo với các ngài ở đây.”

Lũ trẻ ngấu nghiến bữa tối như lũ sói lao vào một con hươu bị thương; chúng tranh nhau cá thu, xé bánh mỳ thành từng mảnh và làm cháo vung vãi khắp nơi. Ngay cả bánh pho mát to tướng cũng không trụ được lâu. Brienne hài lòng với món cá, bánh mỳ và cà rốt, còn Septon Meribald mỗi lần ăn đều chia cho Chó hai miếng. Ngoài trời, mưa bắt đầu rơi. Trong nhà, lửa kêu lách tách, sảnh chung tràn ngập tiếng nhai thức ăn và tiếng Willow đánh lũ trẻ bằng cái muỗng. “Rồi một ngày đứa nhỏ đó sẽ trở thành bà vợ dữ dằn của một ông chồng tội ngiệp nào đó,” Ser Hyle quan sát. “Khả năng là thằng bé thợ

rèn đáng thương kia.”

“Ai đó đưa thức ăn cho cậu ta đi, trước khi trên bàn chẳng còn gì.”

“Ai đó là cô đấy.”

Cô gói một mảnh pho mát, một chút bánh mỳ, một quả táo sấy và hai khoanh cá thu chiên xù vào một mảnh vải vuông. Khi Podrick đứng dậy định theo cô ra ngoài, cô bảo cậu bé cứ ngồi lại ăn. “Ta sẽ

về ngay.”

Ngoài sân, trời đang mưa nặng hạt. Brienne che thức ăn bằng vạt áo choàng. Một số con ngựa hí vang khi cô đi qua chuồng ngựa. Chúng cũng đang đói.

Gendry đang ở trong xưởng rèn, ngực trần đằng sau tấm tạp dề da. Cậu ta đang quai búa lên một thanh kiếm như thể cậu ước đó là kẻ thù, mái tóc ướt đẫm mồ hôi lòa xòa trước trán. Cô quan sát cậu một hồi lâu. Cậu nhóc có mái tóc và đôi mắt của Renly, nhưng khổ người thì không. Lãnh chúa Renly

mảnh dẻ và uyển chuyển chứ không nở nang vạm vỡ... không giống như anh trai Robert, người nổi

tiếng khỏe mạnh.

Khi dừng lại để lau mồ hôi trên trán, Gendry mới nhìn thấy cô đang đứng đó. “Cô cần gì?”

“Tôi mang bữa tối đến.” Cô mở bọc vải ra cho cậu thấy.

“Nếu cần ăn thì tôi đã ăn rồi.”

“Thợ rèn cần phải giữ cho cơ thể khỏe mạnh.”

“Cô là mẹ tôi chắc?”

“Không.” Cô đặt thức ăn xuống. “Mẹ cậu là ai?”

“Mẹ tôi là ai thì liên quan gì đến cô?”

“Cậu sinh ra ở Vương Đô.” Cô dám chắc điều đó thông qua giọng nói của cậu.

“Tôi và rất nhiều người khác.” Cậu quẳng thanh kiếm vào một chậu nước mưa để làm nguội nó.

Thép nóng kêu xèo xèo như giận dữ.

“Cậu bao nhiêu tuổi rồi?” Brienne hỏi. “Mẹ cậu còn sống không? Và cha cậu nữa, ông ấy là ai?”

“Cô hỏi nhiều quá đấy.” Cậu đặt thanh kiếm xuống. “Mẹ tôi chết rồi, còn cha thì tôi chẳng biết là ai.”

“Vậy cậu là con hoang.”

Đối với cậu đó là lời sỉ nhục. “Tôi là hiệp sĩ. Khi thanh kiếm này được rèn xong nó sẽ là của tôi.”

Một hiệp sĩ làm việc trong lò rèn ư? “Cậu có tóc đen và mắt xanh, và cậu được sinh ra dưới cái bóng của Tháp Đỏ. Chưa có ai nhận xét về khuôn mặt cậu sao?”

“Mặt tôi làm sao? Nó đâu có xấu xí như mặt cô.”

“Ở Vương Đô chắc hẳn cậu đã thấy vua Robert rồi chứ?”

Cậu nhún vai. “Thỉnh thoảng. Nhìn thấy từ xa, trong trường đấu. Một lần ở Đại Điện Baelor. Đội quân áo choàng vàng xô chúng tôi sang bên cạnh để nhà vua đi qua. Một lần khác tôi đang chơi gần Cổng Bùn thì gặp ông ấy đi săn về. Ông ta say bí tỉ và suýt nữa cho ngựa giẫm lên người tôi. Ông ta khá béo, nhưng vẫn là ông vua tốt hơn so với các con của ông ta.”

Chúng không phải con ông ấy. Stannis nói đúng, vào cái ngày ông ta gặp Renly. Joffrey và Tommen chưa bao giờ là con trai Robert. Nhưng cậu bé này thì... “Nghe tôi nói đây,” Brienne vừa bắt đầu thì

bỗng nghe thấy tiếng Chó sủa điên cuồng. “Ai đó đang đến.”

“Bạn bè thôi,” Gendry thản nhiên đáp.

“Bạn kiểu nào?” Brienne ra cửa xưởng rèn và ngó qua màn mưa.

Cậu nhóc nhún vai. “Cô sẽ sớm được gặp họ thôi.”

Có thể tôi không muốn gặp họ đâu, Brienne nghĩ khi kỵ sĩ đầu tiên phi vào qua vũng nước trong sân làm nước bắn lên tung tóe. Lẫn trong tiếng mưa rơi lộp độp và tiếng Chó sủa, cô nghe thấy tiếng kiếm và giáp leng keng bên dưới những chiếc áo choàng rách rưới của họ. Cô đếm số người khi họ tiến vào.

Hai, bốn, sáu, bảy. Nhìn dáng cưỡi ngựa của họ có thể thấy một số người đang bị thương. Người đi cuối cùng là một gã khổng lồ nặng nề, to gấp đôi người khác. Con ngựa của hắn bị thương và be bét máu, đang lảo đảo bước đi bên dưới sức nặng của hắn. Tất cả các kỵ sĩ khác đều đội mũ trùm kín đầu để tránh cơn mưa, ngoại trừ hắn ta. Khuôn mặt hắn to, nhẵn nhụi và trắng bệch, hai bên má phúng phính đầy những vết thương đang rỉ nước.

Brienne nín thở và rút thanh Kẻ Giữ Lời Thề ra. Quá đông, cô nghĩ và bắt đầu thấy sợ. Chúng có quá đông người. “Gendry,” cô hạ thấp giọng, “cậu sẽ cần kiếm và giáp đấy. Những người này không

phải bạn cậu đâu. Không phải bạn của ai cả.”

“Cô nói sao?” Cậu nhóc đến đứng bên cạnh cô với cái búa trong tay.

Chớp lóe lên ở phía nam khi các kỵ sĩ vùng xuống ngựa. Trong tích tắc, ban đêm chuyển sang ngày. Một cây rìu sáng lên màu xanh bạc, ánh sáng chiếu lên giáp xích và tấm chắn ngực sáng lóa, và bên

dưới cái mũ trùm sùm sụp của người dẫn đầu, Brienne thoáng thấy một chiếc mũi sắt và hàm răng bằng thép đang gầm gừ.

Gendry cũng nhìn thấy. “Hắn.”

“Không phải hắn. Là cái mũ của hắn.” Brienne cố gắng không tỏ ra sợ hãi, nhưng miệng cô khô như ngói. Cô biết rõ ai là người đội chiếc mũ của Chó Săn. Lũ trẻ, cô nghĩ.

Cửa vào nhà trọ mở tung. Willow bước ra màn mưa với cây nỏ trong tay. Cô bé đang hét gì đó với đám người cưỡi ngựa, nhưng một đợt sấm sét nổi lên nuốt mất lời nói của cô bé. Khi tiếng sấm ngớt, Brienne nghe thấy người đàn ông đội mũ của Chó Săn nói, “Cứ thử bắn một mũi tên xem, tao sẽ đút cái cung đó vào giữa hai chân mày và hϊếp mày một trận ra trò. Sau đó tao sẽ móc mắt mày ra và bắt mày

ăn chúng.” Giọng nói giận dữ của người đàn ông khiến Willow run run lùi lại một bước.

Bảy tên, Brienne nghĩ trong tuyệt vọng. Cô biết mình không thể nào thắng được bảy người. Không thể. Không thể.

Cô bước ra sân với thanh Kẻ Giữ Lời Thề trong tay. “Để cô bé yên. Nếu ngươi muốn hãʍ Ꮒϊếp ai đó thì thử với ta đây này.”

Lũ cướp quay người ngay lập tức. Một tên phá lên cười, một tên khác nói câu gì đó bằng thứ ngôn ngữ mà Brienne không hiểu. Tên to lớn với khuôn mặt trắng bệch rít lên phì phì. Gã đội chiếc mũ của Chó Săn bắt đầu cười phá lên. “Trông mày còn xấu xí hơn cả trong trí nhớ của tao. Tao thà hϊếp con

ngựa của mày còn hơn.”

“Ngựa, chúng tao cần ngựa,” một trong những tên bị thương nói. “Ngựa khỏe, và thức ăn nữa. Bọn cướp đang đuổi theo chúng tao. Đưa ngựa đây, chúng tao sẽ đi và không làm hại ai cả.”

“Chó chết.” Gã cướp trong chiếc mũ của Chó Săn lôi một chiếc rìu chiến ra khỏi yên. “Tao muốn chặt đứt chân nó. Tao sẽ cho nó đứng trên hai cái chân cụt và xem tao hϊếp con bé cầm nỏ kia.”

“Bằng cái gì?” Brienne chế giễu. “Shagwell nói chúng đã cắt cả của quý của mày khi cắt mũi mày cơ mà.”

Cô muốn chọc tức hắn, và câu nói đã phát huy tác dụng. Hắn rống lên chửi rủa và lao tới chỗ cô, nước bắn tung tóe theo mỗi bước chân khi hắn xông lên tấn công. Những tên khác lùi lại để xem cuộc đấu, đúng như cô cầu nguyện. Brienne đứng yên như đá và chờ đợi. Khoảnh sân tối tăm và đầy bùn

trơn trượt dưới chân. Tốt nhất cứ để hắn lao tới chỗ ta. Nếu các vị thần tốt bụng, hắn sẽ trượt chân ngã.

Các vị thần không tốt đến vậy, nhưng kiếm của cô thì có. Năm bước, bốn bước, nào, Brienne đếm,

và thanh Kẻ Giữ Lời Thề vung lên chống trả. Tiếng thép chạm nhau leng keng khi thanh kiếm của cô cắt qua lớp quần áo rách, rạch một vệt dài và sâu trên áo giáp xích của hắn, cùng lúc đó rìu của hắn cũng bổ xuống cô. Cô xoay sang một bên, chém vào ngực hắn lần nữa khi lùi lại.

Hắn đuổi theo, quay cuồng, chảy máu và gào thét trong cơn thịnh nộ. “Đồ đĩ điếm!” hắn xông vào. “Quái vật! Cɧó ©áϊ! Tao sẽ cho con chó của tao hϊếp mày, con cɧó ©áϊ khốn kiếp!” Chiếc rìu của hắn múa thành một đường hình cung, bóng đen ác độc chuyển thành màu bạc mỗi lần chớp lóe lên. Brienne không có khiên để đỡ những cú đánh. Tất cả những gì cô có thể làm là lùi lại, nhảy bên này, tránh bên kia khi chiếc rìu vung đến phía cô. Một lần cô giẫm phải vũng bùn và suýt ngã, nhưng bằng cách nào đó cô giữ được thăng bằng, tuy vậy chiếc rìu vẫn sượt qua vai trái khiến vai cô đau nhói. “Mày chém

trúng con cɧó ©áϊ rồi!” một tên hô to, một tên khác nói, “Để xem nó có tránh được cú đó không.”

Cô nhảy tránh và thở phào vì chúng chỉ đứng nhìn. Thà như vậy còn hơn là tất cả bọn chúng xông vào một lúc. Cô không thể cùng lúc đánh bảy tên, dù một, hai tên trong số đó đang bị thương đi chăng nữa. Ser Goodwin già đã xuống mộ từ lâu, nhưng cô vẫn nghe được tiếng ông thì thầm bên cạnh. Đàn ông sẽ luôn đánh giá thấp con, ông nói, và niềm kiêu hãnh của họ khiến họ muốn đánh bại con một

cách nhanh chóng, để người đời không thể nói họ bị một ả đàn bà làm khó. Hãy để họ dùng hết sức vào những đòn tấn công giận dữ trong khi con dưỡng sức. Chờ đợi và quan sát, cô bé ạ, chờ đợi và quan sát. Cô đang chờ đợi, quan sát, di chuyển sang bên, sau đó quay lại, rồi lại tránh sang một bên, lúc chém vào mặt, lúc chém vào chân, lúc chém vào tay hắn. Những cú chém của hắn chậm dần khi chiếc rìu cảm giác mỗi lúc một nặng hơn. Brienne xoay người để nước mưa rơi vào mắt hắn và nhanh chóng lùi lại hai bước. Hắn vung rìu lên một lần nữa, miệng chửi rủa và lao theo cô, nhưng một chân bị trượt trên bùn…

...và cô xông lên, cầm kiếm bằng cả hai tay. Cú tấn công nhanh của Rorge đưa hắn thẳng vào mũi kiếm của cô. Thanh Kẻ Giữ Lời Thề đâm qua vải, giáp xích, da và một lớp vải nữa, xuyên qua bụng và lưng hắn. Thanh kiếm nạo vào xương sống của hắn kêu cọt kẹt. Rìu của hắn rơi khỏi tay, hai người họ đâm sầm vào nhau, mặt Brienne đập vào chiếc mũ của Chó Săn. Cô cảm nhận được cái lạnh và ướŧ áŧ của kim loại trên má. Nước mưa chảy trên thép như sông, và khi chớp lóe lên một lần nữa, qua khe

mắt của chiếc mũ giáp, cô nhìn thấy nỗi đau, vẻ kinh hãi và hoài nghi hiện lên trong mắt Rorge. “Sa-phia,” cô thì thầm khi xoáy mạnh chiếc kiếm khiến hắn rùng mình. Trọng lượng của hắn đè nặng lên người Brienne, và nhanh chóng hắn trở thành một xác chết trong tay cô, giữa màn mưa đen kịt. Cô lùi lại một bước và để hắn đổ ập xuống…

...Cắn Xé ré lên lao về phía cô.

Len ướt và da thịt trắng sữa đè lên cô như tuyết lở, khiến cô lảo đảo và ngã ngửa xuống đất. Nước bắn tung tóe lên mũi, lên mắt Brienne khi cô rơi xuống một vũng lầy. Phổi cô không còn chút không khí nào, còn đầu cô đập xuống một hòn đá nửa nhô lên mặt đất kèm theo một tiếng rắc lớn. “Không,” đó là

tất cả những gì cô kịp nói trước khi Cắn Xé đè lên cô, sức nặng của hắn khiến cô lún sâu hơn nữa xuống bùn. Một tay hắn nắm tóc và ấn đầu cô xuống đất. Tay còn lại hắn bóp cổ cô. Thanh Kẻ Giữ Lời

Thề rơi khỏi tay cô và văng xa tầm với. Brienne chỉ có tay không để đẩy hắn ra, nhưng khi đấm vào mặt hắn, cô cảm giác như mình đang đấm một bao bột mỳ ướt. Hắn rít lên phì phì.

Cô đánh hắn lần nữa, lần nữa rồi lần nữa, sau đó đấm vào mắt hắn, nhưng dường như hắn chẳng cảm thấy gì. Cô cào vào cổ tay hắn đến chảy máu nhưng chỉ làm cho hắn bóp chặt hơn. Hắn đang

nghiến nát cô và làm cô ngạt thở. Cô đẩy vai hắn để hắn buông ra, nhưng Cắn Xé nặng như một con ngựa nên chẳng hề suy chuyển. Brienne cố đá vào hạ bộ hắn nhưng rốt cuộc chỉ thúc được đầu gối vào bụng gã to xác. Cắn Xé gầm gừ giật một nắm tóc ra khỏi đầu cô.

Con dao của ta. Brienne tuyệt vọng bám chặt vào suy nghĩ đó. Cô lần tay xuống khoảng cách giữa họ, những ngón tay dò dẫm bên dưới da thịt chua ngoét của hắn để tìm kiếm cho đến khi cô sờ thấy chuôi dao. Cắn Xé dùng cả hai tay bóp cổ cô và bắt đầu đập đầu cô xuống đất. Chớp lại lóe lên, nhưng lần này là chớp ở trong đầu. Tuy vậy, các ngón tay cô vẫn nắm chặt lại và rút con dao ra khỏi vỏ. Vì hắn nằm trên chốc cô nên cô không thể vung dao lên để đâm, vì vậy cô rạch một đường vào bụng hắn. Thứ gì đó ướt và ấm phun lên các ngón tay cô. Cắn Xé rít lên lần nữa, tiếng kêu to hơn bao giờ hết và buông tay khỏi cổ Briene, đủ lâu để đấm vào mặt cô. Cô nghe thấy tiếng xương gãy, và trong một khoẳnh khắc cú đấm làm cô mờ mắt. Khi cô cố rạch bụng hắn một lần nữa, hắn giật con dao khỏi

tay cô và quỳ mạnh một gối xuống làm cẳng tay cô gãy răng rắc. Sau đó hắn chộp lấy đầu cô và tiếp tục xé nó ra khỏi cổ.

Brienne nghe thấy tiếng Chó sủa cùng tiếng đàn ông hò hét xung quanh, và giữa những tiếng sấm, cô nghe thấy tiếng thép chém vào nhau. Ser Hyle, cô nghĩ, Ser Hyle đã vào cuộc, nhưng tất cả dường

như ở rất xa và không còn quan trọng nữa. Thế giới của cô giờ chỉ còn xoay quanh hai bàn tay bóp nghẹt lấy cổ cô và khuôn mặt lù lù trước mắt. Nước mưa chảy xuống từ mũ hắn khi hắn cúi xuống sát hơn. Hơi thở của hắn tanh mùi pho mát thối.

Ngực Brienne nóng như thiêu đốt, và cơn bão kéo đến trong đầu làm cô mờ mắt. Trong người cô, xương cốt nghiến lên nhau kêu cọt kẹt. Miệng Cắn Xé há to đến mức không thể to hơn. Cô nhìn thấy hàm răng hắn vàng xỉn, xiên xẹo và nhọn hoắt. Khi chúng ngoạm vào phần thịt trên má cô, dường như cô không cảm nhận được gì cả. Cô cảm giác thế giới quay cuồng và cô đang rơi vào bóng tối. Ta chưa

thể chết được, cô tự nhủ, ta còn rất nhiều việc phải làm.

Cắn Xé ngẩng đầu lên, trong miệng đầy thịt và máu. Hắn nhổ đi và nhăn nhở cười, rồi lại cắn ngập răng vào mặt cô lần nữa. Lần này hắn nhai và nuốt. Hắn đang ăn thịt mình, dù nhận ra điều đó nhưng cô không còn chút hơi sức nào mà chống trả. Cô thấy mình đang trôi bồng bềnh phía trên và quan sát cảnh

tượng kinh hoàng đó, như thể sự việc đang xảy ra với người phụ nữ khác, một cô gái ngu đần nào đó cứ tưởng mình là hiệp sĩ. Mình sắp chết rồi, cô tự nhủ. Vậy thì hắn ăn mình hay không cũng chẳng có nghĩa lý gì. Cắn Xé ngẩng đầu lên và há miệng ra lần nữa, hắn tru lên rồi thè lưỡi vào mặt cô. Cái lưỡi nhọn hoắt và dài hơn mức bình thường, máu nhỏ xuống từ đó tong tỏng. Từ trong miệng hắn, cái lưỡi thè ra, thè ra mãi, đỏ rực, ướŧ áŧ và nhơm nhớp máu. Một hình ảnh gớm ghiếc và bẩn thỉu. Lưỡi hắn phải dài tới ba mươi phân, Brienne nghĩ. Và sau đó, bóng tối nhanh chóng bao trùm lấy cô. Chuyện gì

vậy nhỉ, trông nó gần giống một thanh kiếm.