Chương 6: Viên châu kì lạ

Đồng đồ vật này Đại Hùng gom lại giữa trận, xem xét một vòng. Bốn túi đen nhỏ kia đều chứa một loại bột vàng mùi hơi nồng, hẳn là loại hùng hoàng (3) tinh chế, đặc biệt tốt khi ngăn chặn rắn hay các loại độc trùng – thứ này những cao nhân đi rừng sâu đều chuẩn bị cẩn thận. Mấy viên đan dược kia thì không cần biết trước đây là thuốc trị thương hay thuốc quý gì, sau thời gian dài lên mốc như vậy, khẳng định đều đã biến chất thành thuốc độc, mấy gói bột kia cũng chẳng chắc tốt lành gì, dù sao giấy gói cũng dày đến mấy lớp. Chuôi đao hơi rỉ nhưng được cao nhân mang theo, hẳn là không tệ. Bình rượu kia hương rất thơm, cả ngàn năm ủ như vậy chắc đã thành loại cực phẩm, các tửu quỷ nhìn thấy đều yêu hơn yêu vợ. Còn một mớ kinh văn kia, lúc này hẳn không có thời gian để xem xét kĩ.

Xé một mảng áo, tách ra thành hai dây vải, Đại Hùng dùng trủy thủ chọc thủng vài lỗ trên hai túi hùng hoàng rồi buộc vào đầu hai mũi tên. Một gói hùng hoàng khác, hắn pha vào trong rượu. Mấy viên đan dược mốc và thuốc bột hắn cũng đổ vào bình rượu luôn, sau đó dùng thanh trủy thủ mang theo ngoáy mấy vòng cho tan – khi hắn rút ra chỉ còn thấy chuôi trủy thủ trong tay – kết quả rất đáng hài lòng. Một gói còn lại hắn để dành dự phòng. Tuy gặp các độc xà bình thường, với bốn gói hùng hoàng này hắn dư sức xua đuổi chúng đi, nhưng với con xà tinh này hắn không chắc chế ngự được. Cho nên hắn phải chuẩn bị cẩn thận.

Đại Hùng nhặt một mảnh đá vỡ trong cổ trận ném thử ra ngoài. Hoàn hảo là nó không hề bị vòng sáng của pháp trận này chặn lại. Dắt chuôi đao và bình rượu quanh hông, Đại Hùng bình tĩnh xé thêm mảnh vải đem mũi mình bịt kín lại rồi lấy một cây tên vừa chuẩn bị lắp vào nỏ, nhắm thẳng về phía đầu mãng xà.

Viu.

Mũi tên từ cự ly gần bay thẳng tới đầu xà tinh. Nhưng quái mãng không hề bất ngờ, lập tức hả miệng phun ra một dòng lửa cực lớn. Mũi tên của Đại Hùng đi chưa tới đầu mãng xà đã bị cháy thành tro, hùng hoàng bắn ra bị lửa đốt cháy thành từng tầng khói màu vàng sậm, tỏa mùi hôi khó chịu.

Hùng hoàng không hổ là khắc tinh của độc xà , độc trùng. Mãng xà kia bị bao phủ trong khói vàng thân thể không ngừng lùi lại, tiếng rít chói tai vang lên liên tục. Nó bò ra chỗ khác, nhưng trong căn phòng đá chật hẹp này cũng chẳng có chỗ nào để né. Trong lúc xà tinh đang uốn éo thân mình lùi sát vào vách tường phía bên kia cổ trận, Đại Hùng tranh thủ khói vàng che khuất liền chạy ra khỏi phía bên kia trận đồ, rút thanh đao vừa tìm được, chọn một chổ vẩy rắn bị bung ra ở gần đuôi, dùng hết sức mình cắm ngập vào đó rạch mạnh một đường dài.

Thanh tiểu đao có thể từng là một bảo đao, dù một góc bị gỉ nhưng vẫn có thể cắt đứt dễ dàng những vẩy rắn cứng chắc. Xà tinh bị tấn công bất ngờ ở đuôi, dù không thấy gì nhưng mãng vĩ vẫn vung lên cao đánh bay Đại Hùng vào trong trận. May hắn chuẩn bị lui lại từ sớm, nếu không đã gãy mất mấy cái xương sườn. Lực đánh của mãng xà cũng không nhẹ, Đại Hùng văng đến sát thạch trụ mới dừng lạ, miệng ọe ra một ít máu.

Mãng xà càng oằn oại, máu càng chảy nhiều, chả mấy chốc mãng huyết từ vết thương chảy ra đã thành một cái vũng lớn. Đại Hùng hồi phục một chút liền đem bình rượu độc ra cầm trên tay, sau đó ngắm chuẩn vào vùng đuôi đang loang máu của mãng xà, ném mạnh tới. Bình rượu đập vào vẩy rắn cứng chắc vỡ tan thành muôn mảnh, rượu độc bên trong phủ đầy lên vết thương xà tinh. Trong chốc lát, cả đoàn huyết tinh lập tức sôi lên sùng sục, da thịt chảy ra thành dịch. Vết thương càng lan rộng, tốc độ mãng nhục bị hóa dịch càng nhanh chóng, không bao lâu một phần đuôi của mãng xà đã dần tiêu thất, lộ ra xương cốt bên trong.

Mãng xà như vậy, càng l*иg lộn hơn nữa, trong lúc quật đuôi vô ý liền đập trúng mấy hắc cốt vòng ngoài thạch trận. Mấy bộ quái cốt dưới lực tác động mạnh đổ xuống ầm ầm, những mảnh xương bắn văng ra, va chạm với thân thể mãng xà. Hắc khí trên quái cốt vừa chạm vào thân mãng xà liền giống như lửa đen, bám dính vào thiêu cháy mấy mảng lớn trên thân nó.

Đầu mãng xà bên kia rít lên thê thảm, từng luồng lửa điên cuồng phun ra xua đoàn khói vàng bay ra tứ tán, nhưng đến khi khói vàng tản ra thì xà đầu đã ngất ngư như say rượu. Đại Hùng chỉ biết hùng hoàng khi đốt sẽ sinh ra khí độc, nhưng không nghĩ hiệu quả lại to lớn đến như vậy. Con xà tinh có dịch độc cực mạnh, nhưng bản thân lại không chống lại được độc vụ và rượu độc pha với hùng hoàng. Nếu không có vòng sáng trong cổ trận bảo vệ, chỉ sợ Đại Hùng có lẽ cũng đã gục vì đám khói vàng kia từ lâu.

Thầm nghĩ may mắn, Đại Hùng lại lắp mấy mũi tên mới lên nỏ, đứng trong cổ trận thong thả nhắm bắn vào mắt của mãng xà đang mờ mịt. Mãng xà bị thương nặng, bị ngộ độc khí, lại bị nỏ tiễn bắn trúng mắt đau đớn, nó ngoái cái xà đầu to như cái trống, phun lửa và dịch độc ra tứ phía. Đại Hùng chờ khi mãng xà điên cuồng, lúc này mới lắp mũi tên buộc túi hùng hoàng thứ hai vào, đợi lúc mãng xà vừa há miệng chuẩn bị phun lửa, liền bắn thẳng vào trong cổ họng của nó. Xà tinh bị vật lạ bắn vào họng, không kịp ngưng lại, mà lửa kia đã ra đến miệng, chỉ nghe khục một cái, xà tinh há hoác miệng ra, gục xuống, trong miệng và mũi, khói vàng từng đoàn đậm đặc bốc ra.

Đại Hùng trốn trong cổ trận chờ một lúc lâu, chắc chắn mãng xà đã tiêu đời mới cảm thấy yên tâm. Thật tội nghiệp cho một con xà tinh đã tu luyện tới đỉnh cấp. Chỉ vì chịu khắc chế của cổ trận và giới hạn của căn phòng đá nên mới bị một kẻ còn đang Sơ Ngộ như Đại Hùng gϊếŧ oan. Mà bây giờ hắn cũng không thèm nhìn lại thành tích lẫy lừng của mình nữa, mọi chú ý đã chuyển hoàn toàn trở về viên châu ngũ sắc kia.

Viên châu này được gắn vào sâu trong miệng thạch long như vậy, không có lý nào được nhét vào bằng cách thông thường. Có kinh nghiệm về chuyện con thỏ rừng, Đại Hùng sờ mó khắp nơi trên thạch trụ nhưng không tìm ra được kẽ hở. Ngay cả mắt rồng hắn cũng đã bấm thử mấy cái để kiểm tra nhưng vẫn hoài công vô ích. Hắn thử dùng cả bảo đao kia cạy đến cong cả lưỡi đao cũng không ăn thua.

Đang lúc thất vọng, Đại Hùng nhìn tới mấy bộ kinh văn kia. Hắn cầm từng bộ một xem qua. Bí kíp võ công thì ghi bằng ngôn ngữ gì đó, hắn đọc không hiểu, chỉ nhìn được mấy cái hình – vứt. Một cuốn kinh thư khác thì viết bằng văn tự Đại Việt, nhưng toàn yếu pháp công quyết gì đó – loại. Một cuốn khác lại toàn về đơn dược trên trời dưới đất – bỏ. Cuối cùng trong quyển kinh văn tên là Thiên Cổ Bách Trận Yếu Thư, may mắn hắn tìm được sơ đồ của pháp trận tương ứng với cổ trận trên sàn thạch phòng.

Giữa lúc Đại Hùng còn đang loay hoay tìm cách tự giải thoát trong hầm đá, bốn đồng bạn của hắn đã chạy đến tận chân núi. Mấy đứa trẻ thở hồng hộc một hồi, thấy sau lưng không có gì khác lạ mới quay sang nhìn nhau.

- Giờ sao đây?

Phan Thành là đứa rủ cả bọn đi săn, lúc này nó cũng là đứa đầu tiên lên tiếng. Hữu Thế vẫn còn chưa hết run, nó len lén liếc nhìn lên núi một hồi rồi quả quyết:

- Bọn mình về thôn kêu người lớn đến cứu Đại Hùng thôi. Bà ta kể ma cây ghê gớm lắm, mình không làm gì được đâu.

Hữu Thế cũng là đứa đầu tiên hô lên rằng Đại Hùng bị ma cây bắt. Trong cả bọn, nó cũng là thằng mê tín nhất. Ngọc Trường lừ mắt nhìn Hữu Thế, sẵng giọng:

- Chắc gì là ma cây bắt nó ? Từ lúc mình bắt đầu chạy đến giờ, có thấy cây đa ấy có gì lạ đâu.

- Nếu ngươi không tin ma cây bắt nó, sao ngươi lại chạy?

Hữu Thế gân cổ cãi. Ngọc Trường cũng hăng lên:

- Tại ta nghe tiếng nó hét. Lại thêm ngươi chạy té đái vãi phân như vậy, ta cũng đâu có kịp suy nghĩ, cứ chạy đã tính sau. Bây giờ nghĩ lại, có khi nó bị con gì khác trong đó cắn thì sao. Nếu không phải ngươi hét toáng lên như vậy, có khi chúng ta đã cứu được Đại Hùng rồi.

- Vậy thì ngươi hơn gì ta đâu?

Phan Thành vội ngắt ngang cuộc khẩu chiến của hai bằng hữu.

- Ta không hỏi các ngươi xem ai đúng ai sai. Ta hỏi là bây giờ chúng ta phải làm sao? Nên về thôn kiếm thêm người hay quay lại cứu Đại Hùng.

Hồng Phương đang trầm ngâm, lúc này mới cất tiếng.

- Theo ta, giờ cử một đứa về thôn tìm thêm người giúp đi. Còn ba đứa còn lại thì quay lại xem Đại Hùng thực sự ra sao. Nếu nó chỉ bị con gì tấn công, không chừng chúng ta có thể cứu được nó. Cho dù gặp linh thú, ba cây nỏ thay phiên bắn vẫn có thể chống chọi được. Nếu quả thực nó bị linh thụ làm hại, chúng ta có thể bắn tên lửa từ xa đốt linh thụ báo thù cho nó. Nghe nói linh thụ hay ma thụ vẫn sợ nhất là lửa cơ mà.

Ba đứa còn lại cúi đầu ngẫm nghĩ, quả thật bọn chúng vừa rồi đã hoảng sợ hơi quá đáng.

- Nếu vậy, đứa nào sẽ về thôn tìm cứu viện đây ?

Phan Thành tiếp lời.

- Để ta đi.

Hữu Thế vội giơ tay. Tuy Hồng Phương nói không sai, nhưng tính Hữu thế mê tín, thà quay về gọi thêm người vẫn chắc ăn hơn.

- Tốt. Nếu vậy, ngươi ráng chạy cho nhanh. Nên kiếm mấy người trong phường săn trước - bọn họ cũng khá thân với Đại Hùng. Nhớ đừng tìm cha mẹ hắn kẻo làm họ lo lắng. Bọn ta sẽ trở lên cứu Đại Hùng, chờ ngươi đưa người đến hỗ trợ sớm đó.

Sau đó, Hữu Thế tách ra tiếp tục về thôn, mà ba đứa trẻ còn lại thì kiểm tra tên nỏ cùng trủy thủ tùy thân, sau đó mới quay trở lại đỉnh núi Đa.

…....

Theo quyển Thiên Cổ Bách Trận, cổ trận có tên là Tứ Trụ Kình Thiên trận. Đại Hùng cần phải bổ sung một số ký tự ở những điểm đặc thù trong cổ trận thì mới mở trận và giải tỏa trận nhãn được. Nhưng yêu cầu của loại mực dùng để viết cổ tự cũng khá khắt khe, đòi hỏi phải có tinh hạch ma thú, mài trong hỗn hợp của mật mãng xà và bột hùng hoàng. Vừa hay, chỗ này có đủ các thứ đó. Đại Hùng vội cầm thanh bảo đao kia đi rạch bụng mãng xà lấy mật và tinh hạch, vừa vuốt mồ hôi hột mừng thầm.

“Nãy mà dùng hết bột hùng hoàng là ở đây với giun với dế luôn rồi. Thảo nào mỗi cao nhân thủ hộ cổ trận đều mang theo nhiều hùng hoàng như vậy”.

Hì hục tìm kiếm trên người con mãng xà mấy thời thần, Đại Hùng mới lâý được tinh hạch và túi mật. Cẩn thận lấy một mảnh vẩy rắn làm chén đựng, hắn đổ túi mật vào trước, trộn thêm bột hùng hoàng, trộn thành hỗn hợp rồi mài tinh hạch màu bạc vào trong đó. Một cục tinh hạch này giá trị đến cả ngàn lạng vàng, không ngờ hôm nay hắn chỉ dùng để chế mực. Mài tinh hạch này mà như mài cả lòng mề của hắn ra luôn a.

Lại thêm nửa canh giờ cật lực nữa hắn mới hoàn tất tạo ra một dung dịch mới màu bạc tương tự loại mực dùng để vẽ nên cổ trận này. Đó là còn nhờ hỗn hợp hùng hoàng và mật rắn đã làm mềm tinh hạch ma thú ra không ít nên mới có thể nhanh như vậy. Cầm phần hướng dẫn trận pháp trên tay, Đại Hùng cẩn thận cắt một góc vẩy mãng xà làm bút vẽ 81 ký hiệu khác nhau trên các vị trí đặc biệt. Khi nét vẽ cuối vừa xong, những ký tự trong trận đồ bắt đầu di chuyển nhanh chóng theo các vòng ngược nhau. Ba mươi sáu vòng chú pháp lần lượt thu nhỏ về trung tâm, leo lên thân thạch long rồi lặn vào trong đó. Khi dòng chú pháp thứ ba mươi sáu đã hoàn toàn dung nhập vào thạch long, từ miệng rồng vang lên một tiếng long ngâm, từ từ há rộng ra.

Đại Hùng nhón tay nhặt viên châu kia ra miệng rồng. Viên châu vừa thoát khỏi miệng thạch long thì vân vụ trên bề mặt quay cuồng quấn vào nhau càng nhanh, sắc châu cũng chuyển dần từ màu trắng sang đen. Khi mọi biến đổi dừng lại, trước mắt Đại Hùng chỉ còn một viên châu to bằng trái vải, đen bóng như đá cuội, hoàn toàn không còn vẻ bắt mắt như trước nữa. Đại Hùng cũng không hiểu tại sao lại như vậy, nhưng lai lịch viên châu này hẳn không tầm thường, nếu không con xà tinh đã không thèm rỏ dãi ra như thế, cho nên hắn cứ thu lại trước cho chắc ăn, sau này từ từ nghiên cứu.

Trong lúc Đại Hùng còn đang ngẩn ngơ, thạch trụ rùng rùng chuyển động rồi hạ thấp dần xuống sàn đá. Tiếp đó một bên vách thụt vào hiện ra một thông đạo mới - xem ra có thể là thông đạo thoát khỏi căn hầm này. Đại Hùng mừng rỡ liền thu gom mớ kinh văn vào người, xem xét qua những gì có thể mang theo ra ngoài.

Bởi vì cổ trận đã giải khai, vòng sáng bảo vệ cũng biến mất. Tuy khói độc màu vàng cũng đã tiêu tán đi không ít nhưng vẫn còn một số đang quanh quẩn dưới sàn. Đại Hùng muốn lột da con mãng xà mang đi nhưng không dám ở lâu gần khí độc, chỉ dám cắt ít da cùng vẩy của nó, lại khoét hai nanh độc, xong mới lấy một mảnh áo của một bộ xương bọc lại rồi vội vã theo thông đạo kia đi lên. Thanh bảo đao kia trong lúc lấy nanh độc dính phải không ít độc dịch cũng bị ăn mòn loang lổ, cuối cùng Đại Hùng dù tiếc cũng đành bỏ lại cạnh xác rắn.

Thông đạo này kéo thẳng một đường. Đại Hùng tìm được cơ quan mở cánh cửa cuối thông đạo ra thì trước mặt hắn đã là bức tượng bên trong cổ miếu. Lắc lắc đầu, Đại Hùng nhặt con thỏ mập trên bệ thờ rồi theo đường cũ đi ra ngoài. Nãy giờ hắn đã ở trong đây gần hai canh giờ nhưng hình như chưa có ai vào tìm hắn, có lẽ những đứa kia đã bỏ về trước rồi.

Khi Đại Hùng chui ra khỏi hốc cây, bầu trời đã ngả sang màu tối thẫm. Xung quanh quả nhiên không còn ai đợi hắn. Cũng chẳng ai biết được hắn đã gặp qua những chuyện gì.

Đại Hùng thở dài một hơi:

- Dù sao thì ta vẫn còn sống.

Đại Hùng lúc lắc con thỏ rừng trong tay, men theo lối cũ chạy xuống núi. Bây giờ hắn đã mất hết những dụng cụ đánh lửa, nếu không về sớm sợ rằng sẽ chẳng còn nhìn thấy gì nữa.

Không được bao xa, Đại Hùng thấy phía trước có ba ánh đuốc lập lòe. Đại Hùng cả mừng vội tìm đường tiến tới.

- Không biết Đại Hùng ra sao rồi. Lâu như vậy mà chưa thấy xuống. Chẳng lẽ nó bị rắn độc cắn hay ngã gãy chân rồi?

- Ta không biết. Nhưng chắc cũng chẳng có chuyện tốt lành gì.

- Thôi đi nhanh lên, gần đến nơi rồi. Nếu không có gì lạ, ta và Hồng Phương sẽ chui vào tìm nó thử.

Phan Thành chặc lưỡi. Dù sao cũng là bạn thân, liều một phen vậy.

- Hù !

Đột nhiên trước mặt ba đứa nhảy ra một người, đầu tóc rối bù, quần áo rách nát, lấm lem. Ba đứa trẻ giật bắn người nhảy vội ra sau, cây nỏ trong tay giương lên nhằm vào người nọ.

Người trước mặt kia cười phá lên he he rồi giơ con thỏ rừng to khác thường trong tay lên lúc lắc.

- Là ta đây. Ta bắt được nó rồi.

- Là ngươi thật đó hả, Đại Hùng.

Thằng Trường quíu lên mừng rỡ.

- Ngươi không sao đó chứ?

------------------------------------

(1) Con cúi: một kiểu dây thừng quấn thật chặt bằng rơm, sau khi đốt thì ngún lửa rất chậm, thường được nhà nông mang theo ra đồng để tiện lấy lửa nấu ăn hay dùng khói hun chuột đồng, rắn.

(2) Xuất xứ của thành ngữ “theo đóm ăn tàn” về loài rắn từ đây mà ra.

(3) Hùng hoàng: loại khoáng thạch tự nhiên có chứa sulfur. Ở nhiệt độ cao, axit sulfuric tác dụng được với nhiều KL hay chất hữu cơ khác nhau. Loại này được dùng trong đánh ghen

(4) Đốt quặng pyrit trong không khí sinh ra khí SO2 màu vàng, nặng hơn không khí và cực độc:

4FeS2 + 11O2 = 2Fe2O3 + 8SO2