Chương 53

54.



Đoạn Hạ ngồi xuống đất xếp bằng, Phương lấy miếu thờ Bồ tát bên đường, xếp lạy cho ngay, vẫn còn hương khói đang dở, rồi nhặt nHạnh đồ lễ từ các miếu thờ khác mà xếp vào, thành một đàn tế lễ chắp vá tuềnh toàng.

Phương liền cất tiếng hỏi lớn:

“Chúng vong Quỷ không chê lễ này chứ?”

Không có tiếng đáp, các vong ma Ngạ Quỷ vẫn cứ thế bay lượn xung quanh bàn thờ vừa mới sắp xong, nhiều con còn cúi xuống trước Phương mà lạy.

Rồi Phương ngồi xuống ngay ngắn giữa đàn, trên đàn đặt lên lá bùa thiêng, còn Hạ rút trong túi ra lá cờ rất nhỏ màu trắng, trên thêu chữ ‘Vu” rồi cắm cờ đạo bên đàn, tiến ra một bàn thờ khác lấy cây cờ ngũ sắc của Phật giáo cắm ngay bên cạnh, xong rút con dao Vu nơi thắt lưng ra cắm bên kia đàn, con dao Vu trên lưỡi khắc chữ “Vu” coi như thay cho kiếm, rồi cùng quỳ xuống mà trợ niệm cho Phương, đoạn cả hai hướng về phương Tây, lạy đủ ba lạy, rồi châm nhang lên, mỗi người ba cây, sau đó Phương đọc bài “Văn tế thập loại chúng sinh.”

Các vong Ngạ Quỷ trầm ngâm lặng nghe, bay lượn xung quanh, rồi văn tế đọc đến giống nào, giống ấy liền quỳ lạy trước đàn rồi từ từ mà tan đi, cứ vậy tới gần sáng thì xong, Hạ rút dao Vu dắt vào người, cờ thì giữ nguyên, rồi hai người lại tiếp tục lên đường về chùa.



Vậy là một chốn đường lộ dài được định xong, từ đó về sau nơi ngã ba Miểu ít còn có thấy tai nạn, nếu có đều chỉ là những người say rượu Thần trí không được minh mẫn, người như thế chẳng chết chỗ này thì cũng chết chỗ kia, một phần khác cũng do người dân cánh lái xe thập Phương đi qua đều e dè mà cẩn trọng, chính quyền địa Phương lại ra sức tuyên truyền nên chẳng dám đi ẩu, đa phần người qua đều để ý có cái bàn thờ rất lạ đặt tạm bợ bên đường, nơi có cắm lá cờ ngũ sắc nhỏ của nhà Phật, bên cạnh có lá cờ trắng thêu chữ ‘Vu”, ai qua cũng thường dựng xe cắm vào đó nén nhang, lại thấy rất linh thiêng như thế nên truyền miệng đi, lâu dần lớn mạnh lên, rồi những người hảo tâm từ nơi bàn thờ ấy mà dựng lên cho to đẹp, nhưng hai lá cờ một đạo một Phật, là phép của người hiền nhân ở đâu yểm vào chẳng rõ, thì không ai dám nhổ lên sợ phá mất trấn yểm, cứ thế người qua chỉ thấy còn mình bàn thờ đó, các cái khác bỏ dần, về sau cánh lái xe góp tiền xây thành miếu, do chẳng biết ai lập ra và cắm cờ đầu tiên, mà lại có cả Phật cả đạo như thế, nên miếu đó gọi là miếu “lưỡng đạo”, nằm trên ngã ba Miểu, còn đến tận ngày nay chẳng khi nào vơi hương khói.

Thật là,

Một ngôi miếu linh thiêng

Đạo binh với đạo thiền

Linh tâm đều hội đủ

Quỷ đói gặp được duyên.



Hạ có về chùa chơi ít hôm với Phương, các sư trong chùa thấy Hạ về ai cũng tay bắt mặt mừng, nhất là Đại Trí thì Vui lắm, miệng lúc nào cũng cười như hoa nở, chỉ có riêng Nhất Nguyên chẳng nói năng gì, Hạ cũng chẳng thèm lại chào câu nào, có điều Hạ cứ ngày ở chùa, tối lại ra ngoài đi đâu chẳng rõ, nhưng cũng chẳng ai hỏi tới…

Binh của Hạ đã rút về cả, báo cho Hạ hay rằng bỗng có nhiều m binh rất mạnh vây quanh nhà mợ Phương, chúng không dám chống các binh đó nên bỏ về cả, Hạ nói lại việc này với Phương.

Vậy là Quỷ Thần đã giữ đúng lời, việc thứ hai ấy cũng đã yên.

Chỉ ít ngày sau đó, Quỷ Thần liền dùng Thần thông dò tìm ra nơi người có cừu thù với chị Hương thông qua phép đánh dấu của chị lên người hắn, rồi dựa lúc mà giao hẹn với Phương ra khỏi chùa mà cảm ứng cho Phương hay, vậy là ba điều đã hoàn tất, Phương giao ước cho nó ngày giờ sẽ thực hiện nghi lễ, xin nó bốn mươi chín ngày để lo hết việc sau, rồi sẽ toàn ý mà giúp nó, có Hạ ở đó làm chứng, việc trả cừu thù của chị Hương đích thân Hạ sẽ lo.

Quỷ nhận lời hai người, cho Phương thời hạn bốn mươi chín ngày sẽ về đòi mạng, Phương lại đã đồng ý bỏ bùa chú hộ thân ra, để Quỷ đặt một đạo bùa yểm lên lưng, có định giờ tử, chỉ cần đến ngày đến tháng, cứ chọn lễ như thế, như thế, rồi tới nơi như thế, như thế…khi gần tới thời điểm, Quỷ sẽ có cảm ứng mà dặn dò thêm về nghi lễ tế Thần.

Hạ cũng cho Quỷ đặt một đạo bùa cảm ứng lên Đề-nan-đà, nếu sau có việc cần cảm ứng với A-tu-la sẽ thông qua Đề-nan-đà mà truyền đạt lại, sau khi xong việc, nhận thông tin về kẻ hành ác da^ʍ kia, Hạ liền bái biệt sư phụ, sư huynh mà rời chùa ra đi…

Vậy là từ ngày Quỷ hẹn giờ chết lên lưng, Hạ lại ra đi, Phương bặt mình trong chùa không hề bước ra khỏi cổng nửa bước, ngày ngày trong phòng thiền mà luyện tập, đêm đến lại tới phòng trụ trì gặp thầy Đại Trí mà bàn việc riêng rất kín chẳng cho ai hay, kể cả các sư Nhất Nguyên Nhất Quang cũng không tiết lậu nửa lời, đối với các su huynh khác thì cấm cửa không gặp, tuy cùng ở trong chùa nhưng trừ sư trụ trì, còn lại đều gặp Phương rất khó, ăn cũng ăn riêng, sinh hoạt đều riêng, phòng thiền cũng riêng, phòng đọc một khi Phương vào, là các sư không ai được ngồi lại, phải đi ra hết. ban ngày không bao giờ bước ra ngoài, chỉ ra ngoài duy nhất một tiếng đồng hồ vào mỗi buổi chiều, mà bước ra khỏi phòng nhưng lại đứng bất động nơi hiên cao nhìn xuống sân chùa, khi đứng đó thì chẳng ai dám gần, thậm chí còn chẳng ai được phép bước lên hiên cao đó để gặp mặt…hết một tiếng đó lại vào đóng cửa kín mít…các sư đều vừa sợ sự huyền bí, lại vừa kính nể công phu chẳng ai dám lại gần hay hỏi han tò mò gì, vậy là tuy sống trong chùa nhưng như người vô hình, Phật tử trăm ngàn người ngày nào cũng tới chùa nhưng không hề ai hay biết trong chùa có một vị như thế, nơi sau cánh cửa luôn đóng im ỉm, treo biển cấm vào, bên trong là một người nam ngày ngày ngồi ngước lên tượng Phật, thân trơ như đá không động một khắc nào, hương khói luôn đủ đầy, các vẻ đẹp đủ đầy, tướng trang nghiêm thanh tịnh, sống như một khổ nhân tu mật hạnh, ai vô tình thấy cảnh ấy cũng phải cảm thán mà lui ra chẳng dám kinh động nửa câu…

Vậy là,

Ngày chết giờ chết đã cận kề

Đời người còn được mấy lần mê

Nhất tâm thanh tịnh cầu siêu thoát

Cội nguồn nước Phật con tìm về.



Trời đã sang chính đông, gió lạnh se sắt, những cơn gió mùa buốt da thịt thổi qua từng chặp khiến người ta phải rùng mình…

Phương đứng lặng nơi mái hiên cao trước cửa phòng thiền mà nhìn xuống dưới nơi sân chùa…

Cậu đã đứng lặng như vậy hơn ba giờ đồng hồ, bất động nơi mái hiên, để dõi theo một bóng hình…Bóng hình một người con gái đang ngồi trên ghế đã nơi sân chùa, lẻ loi, cô độc, tuyệt vọng…

Vy đã ngồi đó cũng hơn ba giờ rồi, cô khẽ cúi đầu xuống, rúc mũi vào chiếc khăn quàng cổ dày cho đỡ lạnh…Vy hôm nay mặc chiếc áo đỏ dày, bên ngoài khoác thêm một chiếc khăn quàng màu xanh rất đẹp, cô mặc chiếc váy dài Phủ quá mắt cá, chân đi giày cao cổ…đôi mắt ngọc khẽ nhắm lại để tránh gió lạnh làm mắt bị khô, đôi môi đào đỏ thắm giờ đã nhạt cả đi, khô khốc, tóc gió bay bay…Khuôn mặt Vy đỏ ửng lên vì lạnh, hai cánh mũi phập phồng, thở ra làn khói trắng, đôi mắt buồn cứ nhìn cụp xuống, hai tay chắp trước ngực, miệng cứ liên tục lẩm bẩm như cầu xin điều gì…

Đã hơn một năm qua kể từ ngày cô trao cho Phương, ngày nào cũng vậy, cứ tan học về, hầu như chiều nào Vy cũng tới chùa Thanh Trúc lễ Phật, cầu nguyện cho Phương, rồi ngồi ở ghế đá đợi Phương ra gặp hơn một tiếng đồng hồ mới về, ngày nào cũng như ngày nào, chẳng kể nắng hay mưa, nóng hay rét, lâu dần thì việc cầu nguyện rồi ngồi ở ghế đá ấy đã thành một thói quen của Vy, được cô duy trì đều đặn… nhưng cô lại luôn phải lủi thủi ra về một mình mà không được gặp, cô không hề hay biết chiều nào Phương cũng đứng nơi mái hiên chùa mà kín đáo nhìn xuống cô theo dõi từ khi cô ngồi vào ghế đá cho tới khi ra về…

Mãi gần đây, cô mới nhận được một cuộc gọi của thầy Đại Trí nói rằng tới chùa đón Phương về quê ngoại, vì mẹ Phương đã mất…Cô bàng hoàng rụng rời cả người, vội bảo mẹ đánh ô tô đến chùa chở Phương về quê, đó là lần đầu cô gặp lại Phương sau hơn một năm…Phương chẳng thay đổi gì cả, vẫn ánh nhìn xa vắn, vẫn vóc người gầy gò, khuôn mặt thanh cao, đôi mắt tĩnh lặng…nhưng lần này có thêm điều gì đó…cái chết của mẹ đã làm Phương suy sụp, trông như cái xác không hồn…có điều gì đó rất lớn lao đã xảy ra trong Phương mà Vy không tài nào hiểu được…

Từ hôm đó trở đi, Phương cứ như người mất hồn làm Vy cũng lo lắng khổ sở theo, Vy còn xuống nhà ngoại Phương thêm mấy lần nữa nhưng mỗi lần cô tới, lại là một lần nhà Phương có thêm tang…

Người lớn, nhất là các bậc cha mẹ đối với con cái, luôn có một thứ kinh nghiệm quý báu, một thứ linh cảm cách giao kì lạ… lời những vị ấy nói, đặc biệt là về chuyện tình duyên của con cái, luôn luôn chính xác, mà con cái mãi không bao giờ hiểu được hết…

Chỉ ngay hôm sau, gia đình Vy, đặc biệt là mẹ Vy, người từng rất yêu quý Phương, đã cấm không cho Vy tới chùa gặp Phương nữa, nhưng Vy không nghe, cô vẫn đều đặn tìm suốt thời gian sau đó, dù chẳng lần nào Phương chịu gặp cô…

Hôm qua thì Vy được mẹ thông báo là chi nhánh công ty của ba cô đã chuyển vào trong Sài Gòn, ba mẹ sẽ đưa cả nhà vào cùng…Vy thừa biết nguyên nhân thật sự là gì, ba mẹ cô có thừa đủ quyền lực và khôn ngoan để hợp lý hóa yêu cầu của họ lên cô…cô cũng có thể không nghe theo, nhưng thật lòng…cô cũng đã mệt mỏi lắm rồi…nên đành buông xuôi thỏa hiệp.

Vậy là hôm nay Vy tới chùa, mong được gặp Phương một lần cuối…cô đã chờ hơn ba tiếng đồng hồ, nhưng Phương vẫn chẳng ra…cô không về mà vẫn kiên trì chờ…cô đã chờ cậu suốt hai năm qua, thì thêm ba tiếng nữa có là gì…

Chỉ vì một câu nói của người ấy…

“…cậu cho tớ thời gian được không? Cậu chờ tớ nhé…”

Mà cô đã miệt mài chờ đợi đến như vậy…

Đáng thương thay cho người con gái yêu phải người có căn số U ẩn,

Em yêu chàng, dù muôn ngàn cách trở

Nguyện bên chàng, vui vẻ chẳng âu lo

Mặc em đau, mặc cho em nhung nhớ

Chàng vẫn thế, vẫn tàn nhẫn hững hờ…



Phương cũng thấy rất lạ, mọi khi chỉ ngồi có một tiếng, đến hôm nay thì đã ngồi ba tiếng, Phật tử đều đã về cả, mà cô vẫn còn ngồi đó chẳng đứng lên…

Bất chợt, có hạt mưa thoáng bay…

Tại sao đang vào đông chí lại có mưa bay trắng cả trời…

Rồi mưa ngày càng nặng hạt.

Phương gọi một chú tiểu lại rồi dặn dò mang dù ra cho Vy, chú tiểu vội vàng lọc cọc chạy xuống sân chùa ngay…

Vy cũng đã thấy mưa, cô khẽ giơ hai bàn tay lên chụm lại để hứng mưa…rồi mưa nặng hạt dần, ướt hết cả tóc Vy…

Chợt cô bật khóc…trong làn mưa, nước mắt của cô hòa cùng với mưa ướt nhòe khuôn mặt hoa…Vy đau khổ, tuyệt vọng tới cùng cực…chỉ sau ngày hôm nay, mãi mãi chẳng còn cơ hội gặp lại người ấy…Phật ở trên cao kia, vì sao Phật chẳng chứng cho tấm lòng thành của con? Con cũng chỉ là người con gái, cũng chỉ mong cầu hạnh phúc bên gia đình như bao cô gái khác…

Phương đứng lặng nơi mái hiên mà quan sát tất cả những điều đó, trong lòng chợt nhói đau lên rất lạ, giọt nước mắt khẽ lăn dài trên má cậu…cậu săp chết rồi…làm sao cậu có thể gặp được cô nữa…

Rồi Phương thấy chú tiểu chạy xuống đưa dù nhưng Vy không nhận, cô khẽ lấy trong ngực áo ra một vật gì trông như một phong thư, đưa cho chú tiểu, rồi lặng lẽ cất bước, thất thểu đi về phía cổng chùa…

Chú tiểu bối rối chẳng biết làm sao, liền hướng mặt lên chỗ Phương đứng chờ hiệu lệnh, Vy quay lại rất nhanh, nhìn thấy chú tiểu làm thế, đoán biết Phương cũng đang ở hướng đó, liền đưa mắt nhìn theo hướng chú tiểu vừa nhìn…

Quả nhiên Phương bối rối tránh không kịp, vậy là hai mắt chạm nhau, một người đứng dưới làn mưa, một người đứng trên mái hiên vắng, cứ vậy mà lặng nhìn…

Vy bật khóc nấc lên một lần sau cuối, rồi dứt khoát quay mặt chạy thẳng về cổng chùa…

Phương hốt hoảng, cậu cũng lờ mờ hiểu ra rằng lần này không giống mọi lần, có thể sau này cậu sẽ không còn được gặp cô nữa, cậu lao xuống sân chàu rồi chạy vụt ra cổng, nhưng Vy đã lên xe ô tô đi về rồi…

Đêm ấy Phương ngồi một mình trong phòng vắng, mở bức thư Vy gửi ra xem, thư ấy như sau:

“…anh Phương, khi anh đọc bức thư này thì em cũng đã đi khỏi nơi đây rồi, gia đình em ngày mai sẽ chuyển vào miền nam, em cũng chẳng mong gặp được anh nên em viết ra đây đôi dòng tâm sự…em biết anh đang trong chùa, em chẳng rõ sao anh không ra gặp em nhưng em cũng đoán biết được phần nào, em chẳng thể trách anh điều gì cả, em biết anh có nỗi khổ trong lòng mà người thường như em không thể biết được, nhưng năm lần bảy lượt em muốn đồng hành cùng anh vượt qua, anh đều đẩy em ra xa. Em lắng nghe nhưng anh chỉ luôn im lặng, Em không sợ chết, em cũng chẳng sợ khổ, em chỉ muốn được cùng anh đi mãi, nhưng mà anh chẳng hiểu lòng em, chỉ cần anh nói một câu yêu, một câu chờ anh, một câu động viên thì có chết em cũng chẳng rời, nhưng anh không thương em phận con gái, anh không biết gì hết mà anh cứ vậy quay lưng bước đi, thì em phải chạy theo anh trong lẻ loi cô độc, gia đình ngăn cấm, tăng đoàn ngăn cấm, đến cả anh cũng ngăn cấm em gặp… Có bao giờ anh nghĩ tới cảm nhận của em chưa? Em thực sự đã tuyệt vọng đến chết, có bao giờ anh thương em, dù chỉ là thương hại? em chẳng thể chịu đựng nổi sự giày vò nữa rồi, cái cảm giác cứ cố chạy theo một điều xa vời, cứ như bơi giữa biển khơi, đi giữa xa mạc hoang Vu chẳng thấy đích đến, cảm giác cô độc, cảm giác mình là người thừa…lâu nay em đã luôn phải chịu đựng những điều ấy tới mức phát điên lên… giờ em mới hiểu rằng trong trái tim anh chưa từng có chỗ cho em, anh chưa từng quan tâm đến cảm giác của em… nhưng dù sao đi nữa, em cũng đã yêu anh rất nhiều, em không bao giờ hối hận chuyện ngày hôm đó của chúng mình, đó là kỉ niệm đẹp nhất cuộc đời em, em sẽ mãi nhớ nó, còn anh thì hãy quên nó đi, hãy quên em đi anh nhé…đó là con đường anh đã chọn đi theo, thôi thì em cũng chúc anh bình an…”

Phương đọc thư xong mặt buồn thiu, lẳng lặng chẳng nói năng gì, ngước lên tượng Phật Như Lai thở dài một tiếng, rồi đứng lên đi tụng kinh.

Từ hôm đó, chẳng còn thấy Vy đến chùa Thanh Trúc nữa…

Thật buồn thay cho mối tình,

Yêu anh dốc kiệt cả trái tim

Vậy mà anh vẫn cứ lặng im

Héo hon tinh Thần bi lụy xác

Để rồi cũng chỉ sự im lìm.



Hạ ngay sau đó rời chùa, tìm đến một nhà hàng bán đồ hải sản ở xã Đông Cương, nơi được A-tu-la ám thị… rồi tìm được một nhà trọ chỉ cách nhà hàng ấy chục mét mà xin ở trọ vài ngày, cọc trước tiền trọ nửa tháng. Chủ nhà thấy người thanh niên đói rách bần hàn, mà lại khí khái như thế cũng thương tình, bảo cứ ở đi, nếu một vài ngày thì thôi cho tiền.

Hạ cúi đầu cảm ơn, liếc thấy trong nhà có bóng âm, liền hỏi chủ nhà sự việc thế nào, bấy giờ chủ nhà mới biết Hạ là thầy bói, liền thực thà kể lại cho chuyện đứa con trai thứ mới có hai tuổi đêm nằm cứ quấy khóc, lại ốm vặt liên miên, cả nhà nửa năm nay vất vả lao đao với nó rồi, Hạ quán sát một lượt thấy chỉ là tà bình thường, Quỷ đói vào trêu người, chẳng có thù oán gì, liền vỗ vai chủ nhà nói yên tâm việc ấy lo được. đêm đó lập đàn gọi chúng m binh lên giao việc, trừ tà ấy đi, coi như cảm ơn đức cưu mang, quả nhiên chỉ cúng một đêm, đứa trẻ liền nín khóc, chủ nhà mừng lắm, biết là người có thuật lạ, vừa nể vừa sợ, lại vừa yêu quý, liền thưa với Hạ cứ ở lại nhà bao lâu cũng được.

Vậy là Hạ ở nhà đó, ngày chỉ nằm trong nhà nghe ngóng không bước ra bở, đêm đến vén rèm nhìn về lối nhà hàng hải sản, thấy khách đã ngớt, đèn đã tắt, liền bước ra khỏi, gặp bác nhủ nhà vẫn đang ngồi hút thuốc lào ngoài cửa liền căn dặn;

“Này ông kia, cứ yên tâm tấm lòng ông tôi đã nhận, tiền trọ sẽ trả không thiếu ông một hào, nhà ông thì tôi giúp cho, nay tôi đi lo việc âm dương ông chớ tiết lậu ra chỉ nửa câu, thì tôi cảm ơn lắm.”

Chủ nhà nghe nói kinh sợ rùng mình, nhìn lại Hạ thì thấy mặc áo pháp dài, sau lưng đeo cờ, hông dắt dao Vu, đội mũ sụp che kín, chân lại đi trần, trông chẳng giống ai, nhưng kinh hãi nhất là nhìn vào đôi mắt người ấy, một mắt bên trái có cảm giác như cháy rực lửa, mặt phải lại xám xịt heo hút trông tựa như hình tròn âm dương, liền cả sợ mà tránh đường cho Hạ bước ra ngoài.

Thật là,

Ngã ba đường, làm lợi cho chúng sinh

Đóng cửa thiền, đoạn lòng nơi tam giới.