Chương 61

62.

…Hôm sau Hạ tới chùa Thanh Trúc tìm sư Đại Trí, Hạ lại mang một lượt các sự việc đêm ấy mà kể hết lại cho sư nghe, chỉ riêng việc phóng hỏa gϊếŧ người là giấu không nói.

Sư nghe chuyện đạo sĩ đã mất, chợt nhớ lại chuyện đêm nọ cùng uống trà dưới trăng, nơi sân chùa mà luận đạo, còn nói cười như thế, giờ đây đã ra người thiên cổ…bất giác trong lòng cảm thán, ngậm ngùi ngửa mặt lên trời mà thở dài.

Hạ hỏi chuyện Phương ra sao? Liệu có cho gặp được không thì thầy chỉ khẽ lắc đầu, Phương nhập thiền đã hơn bốn mươi ngày nhưng đặc biệt là bốn ngày nay, từ khi Vy đi khỏi thì không bước ra khỏi gian phòng thiền bở, bên trong thì đồ dưỡng sinh chỉ có một hũ lạc và một bình nước hai mươi lít để ăn uống, cừa lúc nào cũng đóng im ỉm chẳng hề mở khóa, ai ở ngoài gọi cũng không thưa, các sư thấy thế đều cả sợ, cứ nghĩ chết mất rồi, định phá mà vào nhưng thầy không cho, dòm qua khe cửa thấy lúc nào cũng ngồi ở thế tọa thiền, dù là sáng hay đêm hôm, biết còn sống là do thấy dưới tượng Phật nhang lúc nào cũng cháy, có thể nói là chẳng biết có nghỉ khi nào không nhưng chưa ai bắt gặp lúc nào ở tư thế khác, mọi người đều liên tưởng tới cảnh đã nhập thiền bốn ngày bảy mươi hai tiếng đều rùng mình ớn lạnh, người bình thường chẳng ai như thế, thầy Đại Trí có công phu thiền cao nhất chùa cũng chỉ tọa thiền được năm tiếng đồng hồ là phải xả…

Phương ngồi lưng hướng ra cửa, mặt hướng vào Phật, trụ tâm thanh tịnh chúng, xung quanh lúc nào cũng có khói nhang bay…

Hạ thở dài chẳng đáp, chuyến này đi chỉ mong sao cốt gặp được Phương, nghe như thế xem ra có điều huyền linh rồi, chắc không gặp được nên cũng chẳng nói gì, đoạn lại hỏi tới Đại Trí xem tính cách mà bắt Kinh Tâm ra sao? Chuyện đêm hôm đó nó vẫn còn đang nghĩ rằng đó là ý chí chủ quan của Hạ, vì Phương tuyệt giao với bên ngoài nên chẳng hề liên can, Quỷ vẫn chẳng mảy may nghi ngờ, nên vẫn còn một cơ hội cuối cùng mà bắt nó, thế nhưng thời Hạn bốn chín ngày cũng đã sắp hết, chỉ còn chẳng đến một tuần, mà vẫn chưa biết thầy Đại Trí liệu tính ra sao…Phương cũng chưa biết là đã rơi vào cảnh giới nào? Hay chỉ là cảnh giới cuối cùng của kẻ sắp chết…

Thầy liền ghé tai Hạ mà nói:

“Thầy đã trù liệu xong xuôi cả, đêm đó tất được việc…”

Rồi đoạn nói lại cho Hạ sắp xếp của mình như thế, như thế…

Hạ cũng nôn nóng muốn cùng tham gia thì thầy gạt đi ngay, thầy nói rằng hiện giờ chân tướng Hạ đã lộ, nếu xuất hiện ra đấy chỉ rút dây động dừng, tốt nhất là cứ nên về núi Vu mà nghỉ ngơi rèn luyện, nếu núi Vu vẫn còn sinh mệnh thì thuyết sao cho chúng nó về hết chùa để thầy quy y tam bảo cho chúng nó là tốt nhất, còn việc với Kinh Tâm thầy đã có mưu như thế, không cho Hạ can dự nữa.

Hạ nhìn bậc ân sư cảm thán, rồi thở dài chẳng nói…

Hạ đã thay đổi nhiều lắm rồi nhưng trong mắt thầy lúc nào Hạ cũng chỉ như đứa trẻ thơ, thầy luôn lo lắng cho an nguy của Hạ…

Hạ cảm động nắm lấy đôi tay già nua nhăn nheo của thầy mà ân cần dặn dò:

“Này thầy ơi chớ có chủ quan khinh xuất nhé, Rồng ấy mạnh lắm chứ chẳng phải đùa, Kinh Tâm thì mạnh yếu ra sao cũng được vì nó bị ràng buộc gì đó mà chẳng thể hại được loài người, thầy tính chuyện nhưng vẫn cứ nghe con là hơn, chớ nên tiết lậu cho ai khác kẻo mà mang họa…”

Sư nghe qua là biết ngay Hạ vẫn đang ám chỉ đến Nhất Nguyên, nên lặng im không đáp.

Hạ thấy vậy thì buồn rầu, trong lòng vừa bực thầy quá tin tưởng chẳng có chút hoài nghi, lại vừa lo cho an nguy của thầy và Phương, nhưng thầy hoài nghi sao được khi mà nó làm việc quá kín kẽ chẳng lộ ra sơ hở gì? Phương có thể đã dè chừng nó nhưng thầy và Nhất Nguyên nó đã cùng nhau đồng hành hơn chục năm tu, tình như cha con, chẳng có bằng cớ gì sao nói bỏ là bỏ ngay cho được?

Rồi thầy nói:

“Con chớ lo cho sư phụ nữa, nhân quả luân hồi, sổ nghiệp đều có ghi cả không ai đổi được, nay con tự lo cho mình thì hơn, nghe lời căn dặn mà làm, về núi mà tu cho tốt, các bậc giác ngộ đại đạo ở núi ấy nay đều đã thác, trách nhiệm của con lại càng to lớn nặng nề chứ chẳng phải việc thường, nếu không đủ oai mà át được chúng Quỷ thì con sẽ bị chúng nó hại ngay, phải luôn nhớ cẩn thận đề phòng, lâu dần thấm nhuần ân đức, thu phục được hết chúng thì thuyết chúng về chùa ta sẽ lo cho việc sau, còn nếu chúng nó không đi thì con cũng phải ở lại núi ấy mà giữ, kẻo chúng nó thoát ra làm loạn, con nhớ lời ta chăng”

Hạ gật đầu mà nước mắt lăn dài.

Hạ biết chẳng thể nói được thầy nữa, nên thầm xiết chặt tay thầy thêm một lần, hai thầy trò lại trò chuyện với nhau rất lâu, cả tới mấy tiếng đồng hồ rồi Hạ mới đứng dậy chào để về núi, thầy còn ân cần sai tiểu trong chùa gói cho mấy cái oản, lại đùm cho ít xôi lạc đồ chay ăn dọc đường đi, Hạ nhớ lại lần trước ra đi, thầy cũng nắm tay mà nhét cho tiền thầy để dành, lần này chẳng còn tiền cho, lại mang đồ ăn ra cho, lúc nào cũng ân cần nâng niu từ việc lớn đến việc nhỏ, biết Hạ đã ngoại đạo rồi mà tình thầy trước sau không đổi, dù các chúng huynh đệ sư tăng đều nói rèm pha rằng Hạ là đứa phản đồ, mà thầy vẫn cứ yêu, chẳng trách một câu, chẳng hỏi nhân duyên, vẫn cứ lo cho từng miếng ăn giấc ngủ, thật là bậc ân sư Đại Trí giác, đại từ bi…

Hạ cầm đùm đồ ăn mà thương trào nước mắt, cứ ôm lấy thầy mà quỳ, bịn rịn mãi chẳng rời…

Thật là,

Lạ mà như thân quen

Còn hơn người máu mủ

Tình bao la ấp ủ

Thương cho cảnh không nhà.

Rồi thầy chẳng hiểu nghĩ sao, lại lưỡng lự mà lấy cho Hạ một đạo bùa thiêng, trên ghi chữ “Di” mà căn dặn:

“Đây là bùa Di, dùng được nó thực sự khó, con theo học đạo phải biết, xuất hồn là phép khó bậc nhất của Huyền nhân, hồn xuất ra khỏi xác vừa lạnh vừa run sợ, rất dễ theo gió mà tan đi, một khi đã tan đi rồi không nhập được về xác cũng coi như chết lâm sàng, điên điên dại dại, do đó phép ấy không thể dùng bừa, hồn xuất ra đã yếu như thế, nhưng các bậc cao tay không chỉ xuất được hồn ra, mà còn phải dùng hồn ấy mà làm được việc thì mới gọi là có công phu thâm sâu, như việc dùng hồn xuất ra để gọi m binh, để luyện Thần chú, để đi do thám, giống như thầy Huyền n con từng làm, hoặc dùng hồn xuất ra để đi nói chuyện, để lặn xuống nước, hoặc vào nơi núi sâu, giống ta từng làm…tuy nhiên tất cả phép đó đều chỉ là trò trẻ con, khó nhất của xuất hồn là dùng hồn thực hiện phép Biến di, đưa hồn đi đến nơi rất xa chỉ trong nháy mắt, hồn Huyền n xuất ra cũng đi được xa năm chục mét, hồn ta xuất ra cũng lặn được sâu tới trăm mét sông, đều chẳng đáng kể gì, con nay chưa biết phép xuất hồn hãy về mà luyện, nếu thực sự trong năm ngày tới từ giờ đến khi hẹn ước với Kinh Tâm con dùng được phép xuất hồn, thì hồn xuất ra hãy ngậm bùa “Di” này vào miệng, nó sẽ thay cho phép Biến di cảm ứng lên người con mà đưa con tới chỗ ta ngay tức khắc, cứ theo ngày giờ như thế mà xuất thì khi ấy chắc chắn con sẽ tới ngay giữa trận, còn nếu giờ đến lúc ấy mà không học được phép xuất hồn thì cũng coi như chưa đủ sức mà hỗ trợ cho thầy trừ yêu, không cần phải đến, ta nói thế chắc con đã hiểu?”

Hạ ngầm hiểu ý thầy cũng muốn cho giúp sức, chỉ sợ tài chẳng đủ lại làm vướng chân, nên mới đưa ra phép xuất hồn để thử tài, nên khẳng khái gật đầu, cất kĩ lá bùa vào trong túi áo.



Thầy tiễn Hạ ra tới cổng chùa, bước ra bên ngoài thì chợt cả hai thầy trò đều thấy có mấy bóng đen bay lảng vảng, Hạ nhìn ra thì kinh hãi kêu lên:

“Thôi việc chẳng xong rồi!”

Thì ra đó là Tam Quỷ Tột Khốc, La Sát và Vô Tận Ý.

Thầy cười vỗ vào vai Hạ nói:

“Con chớ có lo gì, lần trước con nguy kịch, ta cũng đã thấy chúng, có nguy thì chúng đến xem mặt, hết nguy chúng lại bỏ đi, hà cớ phải bận tâm mà gây hoang mang sợ hãi trong lòng…”

Nói rồi chẳng để Hạ kịp trả lời, xiết tay lần cuối rồi bước vào chùa.

Đại Trí vừa bước qua cổng chùa thì Tam Quỷ liền biến mất, Hạ cả sợ thầm nghĩ trong lòng… thôi, chúng nó đến coi mặt thầy ta rồi…phen này lành ít dữ nhiều…

Nghĩ vậy thì thấy bất an ghê ghớm, dợm bước định quay lại vào chùa không đi nữa, nhưng suy đi tính lại, thầy chỉ trong chùa bặt không ra, theo như kế thầy thì phép xuất hồn ấy thầy dùng giỏi hơn thầy Huyền n một bậc, cũng chẳng phải lo gì, lại nghĩ đến xác Huyền n đang nhờ xe đưa về núi chưa có ai ra nhận, nên lại thoáng phân vân, cứ thế đắn đo đi tới đi lui trước cổng chùa mãi không quyết được, rồi bỗng nhiên có giọng nói nghiêm nghị quát lên sau lưng:

“Này phản đồ, mày còn dám bén mảng về đây?”

Ra là sư Nhất Nguyên đi đâu về, vô tình trông thấy Hạ…

Hạ nghe thế thì không thèm đáp, hướng về núi Vu bỏ đi thẳng…



Lại mất đến gần một tuần sau, Hạ mới đưa được xác Huyền n về được núi Vu mà chôn cất dựng mộ đàng hoàng, xong việc ngồi nhìn lại cảnh vật, cô quạnh đìu hìu, nhìn lại nơi mái chòi ngày xưa thầy trò cùng nhau ngồi đó tọa thiền lòng lại đau như cắt, òa lên khóc lóc giữa đêm…hiện giờ núi Vu đã bị phá tan, lại chẳng còn biết đi đâu về đâu…

Đang lúc ngồi ngẩn ngơ, bối rối, lại bỗng thấy các bóng đen khi ẩn khi mờ, sau đều hội đủ lên, thì thấy lác đác chúng Quỷ, hóa ra là những con còn sót lại sau đêm Kinh Tâm đến đây diệt núi, đã mau mắn mà trốn sâu được dưới lòng đất thoát được họa diệt môn, một Quỷ có hình dáng một con dơi nhỏ, bay là là đến gần Hạ mà nói:

“Tôi là Án-li-xá, chuyên lo việc giấy tờ văn thư cho Tổ, trước khi xuất sơn lần cuối đi theo Nhu-há-luật tới chỗ tiên sinh, Tổ đã lường trước việc khó, sợ có đi chẳng có về nên trước khi đi đã căn dặn chúng tôi, rồi lập ra di chúc, nay trong di chúc của Bát Tổ Huyền n có ghi truyền cho tiên sinh lập làm Cửu Tổ lấy hiệu là Tổ Huyền Vi, ấn được cất dưới bàn đá nơi bệ thờ Thần núi, tiên sinh mau đi nhận ấn cho đi…”

Hạ ngước lại nhìn, thấy chúng Quỷ trên núi chỉ còn chưa đến chục con, con nào con nấy đều đang quỳ phục chờ đợi, trong lòng mới thầm cảm thán chúng nó, núi đã mất Thần mất Tổ, nhưng chúng nó cũng chẳng bỏ đi, Hạ cũng quỳ xuống lạy lại các Quỷ mà thưa:

“Tôi đúng là tội nhân, vì tôi mà núi bị diệt, môn bị hoại thế này, tôi còn mặt mũi nào mà xứng với danh ấy”

Rồi cứ thế dập đầu xuống lạy.

Các Quỷ thấy vậy hoảng hốt lựa lời dịu dàng mà an ủi, Quỷ lửa Hỏa thiên di liền hiện ra nói:

“Chức Tổ chỉ có Huyền nhân mới được truyền chứ Quỷ không được nhận chức ấy, tuy núi có Thần nhưng Tổ vẫn phải là người, hiện giờ phái Vu cả người cả Quỷ hơn năm trăm mà giờ chỉ còn sót lại có một nấy đang ở đây cả, lại chỉ có duy nhất tiên sinh là người, được Tổ truyền cho thuật, nếu tiên sinh không nhận chẳng ai làm được, chúng tôi ăn lộc núi Vu đã lâu, ân nghĩa đã thấm nhuần các cõi, giờ Thần Vu đã mất, Tổ Huyền n cũng chẳng còn, chỉ còn mình tiên sinh hiểu đạo, nếu tiên sinh bỏ đi thì phái Vu mất, chúng tôi cũng chỉ có tìm con đường chết cho trọn đạo, việc ấy tùy vào tiên sinh cả…”

Hạ nghe xong cảm động òa lên mà khóc, rồi hướng về phía miếu Vu Thần, thấy miếu chỉ còn trơ, linh khí chẳng còn gì thì quặn đau lòng, lại nhớ thầy, cứ thế vật vã mà khóc đến mức ngất lịm cả đi, các Quỷ phải dùng phép nhóm lửa lên sưởi cho qua đêm lạnh…

Thật là,

Gặp ân sư, tình cao chẳng đổi

Mong gửi gắm, nhận ấn Tổ sư.