Chương 52: Vụ án thứ 12 - Bóng ma mộ địa (2)

Tôi và Lâm Đào mở cửa xe ra, quan sát hình dạng của vết máu trong xe. Vết máu chủ yếu phân bố trên ghế lái phụ, trên khung cửa xe bên phải có vết máu lớn dạng phun bắn, trên chỗ tựa đầu của ghế ngồi có vết máu thấm thành mảng lớn, còn chảy cả xuống dưới thành từng vệt, tạo thành vũng máu trên đệm ngồi.

“Mất máu không ít.” Tôi nói. “Các vết máu bắn mảnh và dài, cho thấy tốc độ máu phun rất nhanh, nếu là động mạch bình thường thì không thể phun mạnh thế được.”

Đội trưởng Triệu nói: “Ừm, theo như khám nghiệm tử thi sơ bộ, có vết súng bắn.”

“Ờ… thế thì vệt khói trắng mà Thẩm Tan trông thấy có phải là khói súng bay lên không?” Đại Bảo hỏi.

Tôi lắc đầu: “Không thể! Khói trắng vừa bốc lên, Thẩm Tam đã lên tiếng khiến hung thủ hoảng sợ chạy luôn rồi, vậy thì hung thủ lấy đâu ra thời gian để chôn xác? Em cho rằng khói trắng chính là do quả bom xịt phụt ra, còn thi thể có lẽ đã bị chôn từ trước đó. Thẩm Tam không nhìn thấy xe taxi và người nên rất có khả năng là thi thể đã bị chôn ở đó từ trước, còn hôm nay hung thủ tới hiện trường chỉ là để thử nghiệm nổ bom thôi.”

Đội trưởng Triệu gật đầu đồng tình.

“Dấu vết này sao trông quen thế nhỉ?” Lâm Đào chợt lên tiếng.

Tại chỗ giáp nhau giữa đệm ngồi và lưng tựa của ghế lái phụ có một vết máu tròn xoe đường kính chừng 1 centimet, trong vết máu lờ mờ có hình bông lúa uốn vòng và một cái khiên.

“Mịa, đồng phục cảnh sát!” Đại Bảo kêu lên.

“Chính xác!” Đội trưởng Triệu nói. “Thi thể mặc cái quần giống hệt quần đồng phục cảnh sát của chúng ta, dấu vết này chắc là do cúc quần in lên.”

“Cũng chưa hẳn đâu.” Tôi nói. “Bây giờ đồng phục cảnh sát đã đổi sang kiểu gì rồi, đồng phục các ngành khác cũng đổi sang kiểu gì rồi? Bảo vệ, quản lý đô thị, quản lý trại giam, quần áo cứ lộn tùng phèo chứ đừng nói chỉ một cái cúc.”

“Nhưng kết hợp với vết thương bị súng bắn, vẫn có rất nhiều khả năng là cảnh sát.” Lâm Đào mím môi nói.

“Nạn nhân ngồi ở ghế lái phụ, chẳng lẽ anh ta móc súng ra tự sát lúc đang đi xe?” Đại Bảo nói.

Tôi lườm Đại Bảo: “Thế anh đã bao giờ thấy ai bắt taxi rồi tự sát trên xe, sau đó được tài xế tốt bụng chôn cất đàng hoàng nhưng chẳng thèm đi báo cảnh sát chưa?”

“Tài xế taxi là đối tượng tình nghi quan trọng,” Lâm Đào nói. “Động cơ gây án có khả năng là cướp của.”

Tôi rọi đèn vào cửa sổ xe, nói: “Nhưng nếu tài xế taxi dùng súng bắn chết người, tại sao trên cửa sổ xe lại không có máu? Cũng không có vết đạn? Nhìn vết máu dính bên cạnh cửa sổ xe, có thể phán đoán rằng viên đạn đã xuyên qua đầu nạn nhân. Còn nữa, cửa kính xe cũng không có dấu vết thay mới.”

“Dốt!” Lâm Đào lừ tôi một cái. “Hạ cửa sổ xuống rồi mới bắn.”

Tôi lại nhìn cửa sổ xe, nói: “À phải rồi, vết máu phun lên xung quanh khung cửa kính, khắp bốn xung quanh đều có, chắc chỉ có khả năng là hạ cửa kính xuống rồi mới bắn. Nhưng nếu thế thì phiền hà đây, vì sẽ không tìm được đầu đạn.”

“Nhưng vỏ đạn có lẽ vẫn ở trong xe,” Lâm Đào nói. “Như vậy sẽ nhanh chóng tra ra được chủng loại đạn, từ đó tìm được loại súng gây án.”

“Ừm!” Đội trưởng Triệu nói, “Để tôi đi bố trí, vừa tìm thông tin về tài xế lái chiếc taxi này, vừa tìm kiếm lai lịch thi thể rất có khả năng là cảnh sát kia.”

“Còn phải xét nghiệm ADN nữa.” Tôi nói. “Cần nhanh chóng xét nghiệm vết máu trên xe và ADN của nạn nhân. Lâm Đào ở lại tìm kiếm thật kỹ xem trên xe còn vật chứng dấu vết nào không, quan trọng nhất là phải tìm được vỏ đạn. Tớ và Đại Bảo tới hiện trường, cũng phải mất vài tiếng đi đường núi đấy.”

*

Chúng tôi ăn cơm hộp ngay trên xe rồi chợp mắt một lát. Sau một chặng đường xóc nảy, chúng tôi đã đến được núi Kê Lĩnh rùng rợn trong truyền thuyết

Tôi giơ tay lên nhìn đồng hồ, vì dọc đường gặp một cơn mưa tuyết nhỏ, vòng vèo theo đường núi trơn trượt nên xe phải đi chậm hơn, lúc này đã là 3 giờ chiều.

“Đã hơn bốn tiếng rồi,” tôi nói, “chắc phải có kết quả xét nghiệm ADN rồi nhỉ?”

“Có kết quả từ mười phút trước rồi,” đội trưởng Triệu nói, “máu ở trên xe là của nạn nhân.”

“Ừm, bị sát hại trên ghế lái phụ.” Tôi nói. “Hiện giờ, nhiều khả năng là tài xế taxi gϊếŧ người cướp của. Nhưng tay tài xế này đúng là gây án cũng vụng về thật đấy, đẩy nguyên cả cái xe xuống hồ thế thì sớm muộn gì chúng ta chẳng phát hiện ra? Tìm được xe, lại chẳng tìm được ra ngay người lái?”

“Hờ hờ!” Đội trưởng Triệu cười khẽ. “Tôi nghĩ hay là ở trên núi Kê Lĩnh bị Thẩm Tam dọa cho mất vía rồi nên mới bỏ của chạy lấy người. Bây giờ chúng tôi đang dốc toàn lực để tìm cho ra tay tài xế.”

“Đã điều tra được thông tin về hắn chưa?” Tôi hỏi.

“Việc đó thì quá dễ!” Đội trưởng Triệu nói. “Đã tới công ty taxi lấy thông tin. Tài xế tên là Tề Hiền, 32 tuổi, cha mẹ mất cả, chưa vợ. Một mình đi đi về về, ít nói. Có giấy phép kinh doanh riêng, xe riêng. Thường ngày anh ta đi làm rất ngẫu hứng, khi thì làm ngày khi thì làm đêm, hứng lên thì làm từ sáng tới khuya, tóm lại là không giao xe cho người khác lái. Người ta đều biết anh ta chẳng có bạn bè thân thích, nhưng không ai biết ngoài giờ làm việc Tề Hiền sống bằng nghề gì.”

“Nghề gì ấy à?” Đại Bảo dựa lưng vào ghế hậm hực nói. “Vừa có súng vừa có mìn, khủng bố chứ còn gì nữa.”

“Thế gần đây hành tung của anh ta thế nào?” Tôi hỏi.

“Nửa tháng trước đã không ai trông thấy Tề Hiền đâu,” đội trưởng Triệu nói. “Anh ta cũng không đến công ty dập thẻ. Thường ngày anh ta ít qua lại với người khác nên chẳng mấy ai để ý. Người trông thấy Tề Hiền lần cuối cùng là ông chủ quán mì trước cổng công ty, ông ta nói nửa tháng trước Tề Hiền có tới đó ăn mì.”

“Trong nửa tháng gần đây chắc là bận chế bom mìn đấy.” Đại Bảo đế vào.

Ở sườn phía bắc núi Kê Lĩnh có hai tốp cảnh sát. Một tốp đang phân tích đặc điểm của quả mìn và các linh kiện, trông sắc mặt của họ, có vẻ như đang bế tắc.

Tốp còn lại, đang vây quanh thi thể.

Tử thi còn mới nguyên, trên người mặc chiếc áo jacket màu nâu, áo len màu đen có dòng chữ “police” trước ngực và quần cảnh sát màu đen, bên trái thắt lưng còn có một bao súng đã mở. Anh Hoa, bác sĩ pháp y địa phương, nói rằng đã sờ khắp các túi áo quần của nạn nhân, chỉ tìm ra một chùm chìa khóa, không còn bất kỳ vật gì khác.

“Cho dù không có chứng minh thư, nhưng nhìn vào cách ăn mặc thì biết nạn nhân đúng là cảnh sát.” Tôi đeo găng tay, lật vành mắt lên xem độ đυ.c của giác mạc, rồi lại xoay chuyển khớp vai của nạn nhân, nói. “Nhìn vào tình trạng phân hủy và hiện tượng co cứng tử thi đã giảm bớt thì chắc là đã bị sát hại vào hai ngày trước.”

“Ừm!” Bác sĩ Hoa gật đầu, nói. “Rất có thể tối hôm trước hung thủ tới chôn xác, hôm sau đến thử mìn.”

Tôi ghé lại gần thi thể, hít ngửi mấy cái, nói: “Lạ thật đấy, thi thể chưa bị phân hủy, sao vẫn ngửi thấy mùi hôi thối nhỉ?”

Bác sĩ Hoa cũng hít mấy cái trong không khí, nói: “Vẫn bình thường mà? Chắc mũi tôi kém. Hay là tại thi thể bị rắc muối lên nên mới có mùi lạ?”

Tôi lắc đầu, không nói gì nữa, dùng kẹp cầm máu kẹp lấy lớp da xung quanh vết thương trên đầu nạn nhân quan sát.

“Thái dương bên trái của nạn nhân có một vết thương hình tròn, xung quanh có dấu vết của nòng súng, chắc đây là chỗ viên đạn đi vào.” Tôi nói. “Thái dương bên phải có một lỗ thủng hình ngôi sao, chắc là chỗ viên đạn bay ra. Phát súng đúng là bắn từ bên trái nạn nhân, cũng chính là bắn về phía ghế lái phụ.”

“Thế… thế nhà xác của các anh ở đâu?” Đại Bảo vừa xoa tay vừa hỏi. “Ở đây lạnh quá!”

Bác sĩ Hoa trả lời: “Chỗ chúng tôi ai chết thì mang đi chôn, làm gì có nhà xác.”

“Vậy phòng giải phẫu tử thi ở đâu?” Đại Bảo vẫn chưa hết hy vọng.

Tôi ngẩng đầu lên nhìn đại Bảo, nói: “Đã theo nghề pháp y thì phải chịu được nóng, chịu được lạnh, chịu được thối, chịu được bẩn. Đã không có nhà xác thì lấy đâu ra phòng giải phẫu tử thi cơ chứ? Chẳng lẽ xây thêm cái phòng giải phẫu ngay trong đồn công an à?”

“Vậy thì các anh thường giải phẫu tử thi ở đâu?” Đại Bảo băn khoăn hỏi.

“Thường thì chúng tôi hay khám nghiệm tử thi ngay tại hiện trường.” Bác sĩ Hoa cười ngượng nghịu. “Sau đó đem mai táng luôn.”

“Cả mùa hè oi bức hay mùa đông rét cóng cũng như vậy cả à?” Đại Bảo hỏi với giọng đầy cảm phục.

Bác sĩ Hoa gật đầu: “Chúng tôi khổ quen rồi.”

“Đừng lãng phí thời giờ nữa, chỉ còn hơn hai tiếng là trời tối mất rồi.” Tôi nói. “Mau giải phẫu thôi.”

Đại Bảo nhìn khắp xung quanh, thấy không có ai nhòm ngó mới yên tâm mở hòm đồ nghề, lôi các dụng cụ giải phẫu ra.

Chúng tôi đặt tử thi nằm trên tấm vải nilon rộng rồi ngồi xổm xuống xung quanh, chuẩn bị bắt tay vào giải phẫu. Bác sĩ Hoa lôi ra mấy cái bao bọc giày, nói: “L*иg vào đi, ngồi xổm thế này dễ bị máu dính lên giày lắm.”

Trời rét cắt da cắt thịt, chúng tôi cứ làm được một lúc lại phải đứng lên giậm chân cho đỡ cóng. Nhưng đối với một gã bắt đầu phát tướng như tôi, ngồi xổm mười phút đã khổ sở lắm rồi chứ đừng nói là suốt mấy tiếng đồng hồ.

Sau khi cạo sạch tóc của nạn nhân, chúng tôi rạch mở da đầu, sau đó ba người hợp sức cầm cưa thủ công chật vật cưa mở xương sọ của nạn nhân ra.

Uy lực của viên đạn không nằm ở khả năng xuyên thấu mà là ở tốc độ xoáy tròn cực nhanh, sẽ hình thành nên một lỗ phá trong thời gian đạn bắn có đường kính lớn gấp mấy chục lần đường kính viên đạn ở xung quanh đường đạn. Lỗ phá này sẽ chèn ép dữ dội các tổ chức mềm xung quanh đường đạn, sau đó lại phục hồi, xung chấn này sẽ khiến cho những bộ phận khá mềm yếu bị vỡ hoặc xuất huyết, gây ra sức sát thương mạnh gấp mười mấy lần lực xuyên thấu của đầu đạn.

Bị tác động bởi lỗ phá trong thời gian đạn bắn, tổ chức não xung quanh đường đạn trên đầu nạn nhân đã vỡ nát hoàn toàn, gây xuất huyết dưới màng nhện và xuất huyết não nghiêm trọng. Cuống não của nạn nhân cũng bị ảnh hưởng, tổ chức não tại vị trí hành não đã nát nhừ như một đống bã đậu.

“Nạn nhân tử vong ngay sau khi trúng đạn.” Tôi nói. “Cuống não nằm sâu trong tổ chức não, khi cuống não bị tổn thương, trung khu thần kinh bị tổn hại thì chức năng hô hấp, tuần hoàn cũng lập tức mất đi.”

Chúng tôi cẩn thận khâu lại phần đầu cho nạn nhân. Tôi thay một lưỡi dao khác, chuẩn bị giải phẫu tiếp phần ngực bụng.

“Ơ!” Bác sĩ Hoa hỏi. “Ngực bụng cũng phải mổ à?”

Tôi ngẩn ra nhìn bác sĩ Hoa: “Ý anh là sao? Thế bình thường các anh không mổ à?”

“Không phải!” Bác sĩ Hoa ngượng nghịu nói. “Hôm nay lạnh quá, tôi sợ các anh không chịu nổi.”

“Không chịu nổi thì cũng phải mổ.” Tôi đưa dao rạch một đường dọc ngực bụng nạn nhân, nói. “Không chừng lại có phát hiện mới.”

Nào ngờ tôi đã đoán đúng. Lưỡi dao phẫu thuật vừa rạch mở dạ dày của nạn nhân, mùi rượu đã phả lên nồng nặc. Tôi vội vàng đứng dậy, đưa khuỷu tay lên dụi mũi.

“Đấy!” Tôi nói. “Phát hiện thêm được bao nhiêu thứ.”

“Phát hiện ra điều gì kia?” Bác sĩ Hoa hỏi.

“Anh ta uống rượu.” Tôi đáp. “Điều này có thể giải thích tại sao anh cảnh sát này lại dễ dàng bị người ta cướp mất súng bắn vỡ sọ. Vì anh ta uống rượu say, ngủ gục trên xe taxi, bị người ta tước mất súng. Chao ôi, đúng là mình làm mình chịu, không tuân thủ năm điều cấm, đã uống rượu lại còn mang theo súng, khác gì tự đào mồ chôn mình kia chứ.”

“Nhưng mà,” bác sĩ Hoa thắc mắc, “bao súng của anh ta giấu bên dưới áo khoác, nếu là tài xế bình thường chắc là không thể biết được. Hay là tay tài xế có quen nạn nhân nên biết anh ta mang theo súng?”

Mọi người đều cúi đầu suy nghĩ.

Sau khi phân tích vật chất trong dạ dày của nạn nhân, tôi nói: “Nạn nhân uống rượu, ăn no, có lẽ đã bị sát hại sau bữa ăn cuối cùng khoảng năm tiếng đồng hồ. Điều đó có nghĩa là, nếu như bình thường nạn nhân ăn cơm vào lúc 7 giờ, vậy thì anh ta bị sát hại vào lúc 11 hoặc 12 giờ đêm. Trong khoảng thời gian đấy, nạn nhân đã làm gì nhỉ?”

“Chắc chắn là đi uống hiệp hai.” Bác sĩ Hoa nói. “Nếu nạn nhân uống rượu trong bữa tối, thế thì năm tiếng đồng hồ sau, mùi rượu trong dạ dày không thể nồng nặc như thế được. Chỉ có một khả năng, đó là sau khi ăn tối xong, anh ta lại đi uống rượu.”

“Đúng là người ăn không hết kẻ lần chẳng ra.” Đại Bảo nói. “Bữa tối của chúng ta chắc lại là mì sốt, có hiệp hai thì chắc cũng chỉ có mì ăn liền thôi.”

Tôi dùng kẹp cầm máu gắp lấy một hạt nhỏ từ trong dạ dày của nạn nhân ra, đặt trên găng tay bóp khẽ, nói: “Anh Hoa đoán đúng đấy, đây là hạt dẻ cười. Bữa tối thì không thể ăn hạt dẻ cười được. Cho nên, rất có thể là anh ta lại đi uống rượu, hát karaoke.”

“Nói tóm lại là nạn nhân tử vong vào khoảng hai ngày trước.” Đại Bảo nói. “Nếu như tìm ra được lai lịch thi thể, những việc này sẽ dễ dàng sáng tỏ thôi mà. Thôi, chúng ta khâu lại đi chứ?”

Tôi gật đầu, nói: “Khâu lại đi.”

Tôi khó nhọc duỗi thẳng lưng, giậm chân thật mạnh, đôi chân như đã tê cứng hoàn toàn. Tôi cởi trang phục giải phẫu, bước đến bên cái hố toàn đá nơi chôn giấu tử thi, ngồi xuống quan sát.

Đại Bảo và bác sĩ Hoa đã khâu xong thi thể, đi đến bên cạnh tôi nói: “Chúng ta quay về huyện lỵ nhé?”

Tôi lắc đầu, nói: “Trong lúc giải phẫu thi thể, tôi vẫn ngửi thấy mùi hôi thối bốc lên từng đợt, nhưng không phải là bốc ra từ thi thể. Bây giờ đến bên cạnh cái hố, tôi cảm thấy thứ mùi ấy càng nồng nặc hơn nữa.”

Đại Bảo hít mấy cái, nói: “Không chỉ em thấy đâu, anh cũng ngửi thấy rồi đây.”

“Còn nữa,” tôi hỏi, “núi này là núi đá hay núi đất thế?”

Bác sĩ Hoa gọi bác trưởng thôn nãy giờ vẫn đứng cạnh làm nhân chứng khám nghiệm hiện trường tới, bác trưởng thôn nói: “Tầng trên là lớp đá cứng, dưới lớp đá là đất.”

“Chúng tôi thấy xung quanh cái hố chôn thi thể toàn là đá vụn, cả dưới đáy hố cũng thế.” Tôi cầm một hòn đá ném xuống đáy hố, nói. “Nhưng thi thể lại được vùi lấp bằng cả đá và đất. Đất ở đây là từ đâu ra nhỉ?”

“Ý em làm dưới đáy cái hố vẫn còn thứ gì khác sao?” Đại Bảo trợn tròn mắt hỏi. “Có người đã đào cái hố này xuống đến tận lớp đất bên dưới, cho nên độ sâu của cái hố chắc không chỉ nông có vậy, mà còn sâu hơn nữa?”

Tôi gật đầu.

Đại Bảo cuống lên, vớ ngay lấy cái thuổng bên cạnh nói: “Để anh đào lên xem nào.”