Chương 56: Vụ án thứ 13 - Oan hồn chuồng thú (2)

Tôi khựng lại một thoáng rồi kinh hãi giật lùi liền mấy bước, va phải Đại Bảo đang ngồi xổm bên cạnh l*иg sắt. Chắc Đại Bảo đã trông thấy sắc mặt tái mét của tôi, liền hỏi: “Sao thế?”

“Kìa… Kìa…” Tôi chỉ vào cái tủ lạnh, đầu óc trống rỗng, lắp bắp không nói nên lời.

Đại Bảo nhìn tôi, rồi lại ngờ vực nhìn sang cái tủ lạnh, sau đó đứng dậy tiến lại gần, mở cửa tủ lạnh ra.

“Ối mẹ ơi!” Đại Bảo có vẻ gan góc hơn tôi, chưa đến nỗi mất hết hồn vía. “Ờ… ờ… vẫn còn một cái xác nữa!”

Lúc này, tôi cũng đã hoàn hồn, bèn quay sang nói với anh cảnh sát khu vực: “Có phát hiện bất ngờ.”

Trong tủ lạnh là một thi thể đàn ông đã đông cứng như que kem, cơ thể co quắp, đầu ngẩng lên, để lộ sắc mặt kinh hoàng.

Có lẽ đã bị đông lạnh khá lâu rồi nên xung quanh tử thi đã đóng tuyết dày cộp, dính liền với thành tủ. Mấy viên cảnh sát khu vực hợp sức định nhấc thi thể ra, nhưng lại lôi cả tủ lạnh lên. Không còn cách nào khác, đành phải ngắt điện đợi cho lớp tuyết đóng trên tử thi tan bớt.

“Đã… đã điều tra chưa?” Tôi gắng trấn tĩnh lại, ngồi xổm xuống, nhặt lên một con dòi. “Các… các nhân chứng… nghe thấy tiếng khóc hôm nào?”

“Sao em… em lại nói lắp thế… thế?” Đại Bảo mắc cái tật cứ thấy người khác lắp bắp là anh ta cũng nói lắp theo.

“Sợ… sợ quá.” Tôi nói rồi quay sang nhìn điều tra viên.

Điều tra viên đang đeo mặt nạ cũng phải nôn khan ầm ĩ, ánh mắt tỏ rõ sự khó chịu khi bị tôi gọi vào phòng, nói: “Là hai ngày 24, 25 tháng trước, ngày 26 thì không nghe thấy tiếng khóc nữa.”

Tôi tính nhẩm, ngày 24 cách hôm nay đúng mười hai ngày.

“Thường thì ruồi nhặng sẽ đẻ trứng vào trong xác chết, mùa này thì chỉ khoảng hai tuần, trứng ruồi sẽ phát triển thành ấu trùng, sau đó bò vào chất dịch thối rữa xung quanh hoặc chui vào thi thể, hai tuần nữa sẽ lột xác thành ruồi.” Tôi nói. “Trên nền nhà không hề có xác ấu trùng, dòi ở đây chắc mới là lứa đầu tiên.”

Đại Bảo cầm lấy con dòi đã bị tôi bóp chết, đo đạc rồi nói: “Căn cứ vào tốc độ sinh trưởng của ấu trùng ruồi nhặng, con dòi dài từng này chắc được khoảng mười ngày tuổi rồi.”

“Điều đó có nghĩa là,” tôi nói, “ngày 24, nạn nhân bắt đầu khóc lóc ở đây, sau ngày 26 thì không nghe thấy gì nữa, vì anh ta đã chết.”

“Tớ có một thắc mắc.” Lâm Đào chen vào. “Cậu nói xem, tại sao nạn nhân chỉ khóc mà không kêu cứu nhỉ?”

“Chắc chắn là bị hung thủ khống chế.” Đại Bảo bắt chước vẻ mặt hung hãn. “Mày kêu thì ông gϊếŧ!”

“Anh biết được là anh ta khóc hay là người trong tủ lạnh kia khóc?” Tôi chỉ vào cái tủ lạnh nói.

“Trọng điểm là tại sao lại khóc?” Đại Bảo giơ khuỷu tay chỉnh lại mặt nạ phòng độc.

“Hay là có ma nữ khóc thật nhỉ?” Lâm Đào lúc nào cũng mê tín. “Gϊếŧ người xong rồi nhỏ nước mắt cá sấu?”

“Trí tưởng tượng phong phú thật đấy.” Tôi nói. “Cậu chuyển nghề viết tiểu thuyết kinh dị đi.”

Lâm Đào đánh mông huých tôi một cái khiến tôi suýt nữa ngã nhào vào bãi dòi.

Tôi trừng mắt với Lâm Đào: “Cậu ở đây làm việc đi, phải tìm bằng được dấu vân tay đấy, tớ tới nhà xác. Thi thể có thể đưa đi được rồi chứ?”

*

Nhà xác Công an huyện Phổ Trấn.

Tôi và Đại Bảo hợp sức khiêng cái thi thể trong tủ lạnh vào bể rã đông trong phòng giải phẫu. Theo tốc độ rã đông bình thường, khoảng hai tiếng đồng hồ nữa chúng tôi mới có thể khám nghiệm thi thể này được.

Vì thế, chúng tôi phải đối mặt với cái thi thể thối rữa trương phình trước.

Quần áo đã bị nhồi căng bởi các bộ phận trương phình, không thể cởi bỏ theo cách bình thường, đành phải lấy kéo cắt.

Quần áo trên người nạn nhân không phải là hàng tầm thường, cộng lại ít nhất cũng hơn vạn tệ.

“Chà, đại gia đấy.” Tôi nói. “Riêng cái quần cũng phải mấy nghìn tệ.”

“Có ích gì không?” Đại Bảo chỉ vào đống phân vàng khè nhoe nhoét đầy đũng quần, nói. “Dính phải phân thì cũng ghê như nhau.”

“Đại tiểu tiện mất kiểm soát?” Tôi nói. “Hiện tượng này thường gặp ở người bị tổn thương sọ não và ngạt thở cơ học.”

“Nhưng đầu, cổ đề không sao cả.” Vì không muốn ngửi thấy mùi hôi thối, bác sĩ Tiết cố nín thở đến nỗi mặt đỏ phừng lên.

Tôi không nói gì, thận trọng mổ tách phần cơ cổ và da đầu từng chút một. Vì tổ chức mềm đã bị thối rữa nên phần cơ đã ngả màu đen, dịch phân hủy xanh lét lõng bõng giữa cơ và da. Tôi cầm miếng vải gạc thấm sạch dịch phân hủy rồi quan sát, khẳng định nạn nhân đúng là không hề có tổn thương cơ học nào gây nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng tổ chức mềm ở mé ngoài đùi phải lại bị khoét mất một mảng lớn.

Đại Bảo ghé sát vào nhìn, kêu ré lên: “Ối mẹ ơi! Đây là tổn thương hình thành sau khi chết! Chẳng lẽ lại có ma nữ ăn thịt người thật!”

Tôi nghe Đại Bảo nói mà toát mồ hôi lạnh, nhưng không phải vì sợ ma quỷ gì, mà là vì thời đại này không thiếu những bài báo đưa tin về kẻ bệnh hoạn ăn thịt người. Tôi vội lấy vải gạc thấm khô vết thương, cầm kính lúp quan sát một lượt rồi nói: “Chỉ giỏi hù dọa người khác là tài, nhìn vết răng mà xem, răng nhỏ và nhọn, chắc là bị chuột gặm đấy.”

“Thế thì còn đỡ. Nhưng, khắp người không có vết thương nào cả.” Đại Bảo chau mày. “Làm thế nào đây? Không thể xác định được nguyên nhân tử vong.”

“Có thể nói là thi thể bị phân hủy quá nghiêm trọng nên không thể tìm ra nguyên nhân tử vong được không?” Bác sĩ Tiết bắt đầu đánh bài chuồn.

Tôi lắc đầu, lật khoang bụng tử thi lên, bắt đầu sắp xếp lại phần ruột của nạn nhân. Lúc này, mùi hôi thối của xác phân hủy, mùi hôi hám của phân lại cộng thêm cái mùi ghê sợ của đường ruột đã phá vỡ giới hạn chịu đựng của bác sĩ Tiết, khiến anh ta mồ hôi như tắm, vội gỡ hết trang bị phòng hộ bỏ chạy ra khỏi phòng phẫu thuật.

Đại Bảo nhìn theo bóng bác sĩ Tiết, lắc đầu xem thường. Tôi cười nói: “Giới hạn chịu đựng cũng giống như tửu lượng vậy, cần phải rèn luyện từ từ.”

Dạ dày nạn nhân rỗng không, có những điểm xuất huyết lòa nhòa, ruột gần như không có gì.

“Biết anh ta tại sao lại chết rồi chứ?” Tôi quay sang hỏi Đại Bảo.

Đại Bảo gật đầu, chỉ vào phân dính trên đũng quần nạn nhân, nói: “Chỉ thấy thải ra không thấy ăn vào, chết vì đói.”

Tôi gật đầu, nói: “Hung thủ đã để nạn nhân đói khát cùng cực, kiệt sức, cộng thêm cơ thể bị mất nước nghiêm trọng, sốc mà chết.”

“Anh vẫn chưa hiểu,” Đại Bảo nói, “một người đàn ông to cao thế này sao lại để người khác nhốt vào l*иg, sau đó chết dần chết mòn vì đói khát mà không dám kêu lên một tiếng? Hung thủ là loại người thế nào vậy?”

“Khả năng kẻ này có súng.” Tôi nói. “Tất nhiên, không có vết đạn, em chỉ đoán mò thôi.”

Đại Bảo gật đầu: “Cũng hơi có lý, nếu không thì khó mà khống chế được một người đàn ông to con thế này.”

“Đâu chỉ có khống chế?” Tôi cầm tay phải nạn nhân nhấc lên, nói. “Mà nạn nhân còn ngoan ngoãn giao nộp toàn bộ của nả trên người cho hung thủ.”

“Gì cơ?” Đại Bảo ghé đầu nhìn xuống tay nạn nhân. “Em đã phán đoán ra tính chất vụ án nhanh thế cơ à? Dựa vào đâu mà bảo đây là một vụ gϊếŧ người cướp của?”

“Anh nhìn mà xem.” Tôi đưa ngón tay quệt qua cổ tay nạn nhân, nói. “Tuy da nạn nhân đã bị trương phồng nhưng chỗ cổ tay này vẫn nhìn thấy mấy nếp nhăn trông rất ngay ngắn.”

“Hiểu rồi, đồng hồ.” Đại Bảo có vẻ như càng ngày càng nhanh trí.

Tôi nói: “Không chỉ ở đây, màu da ở gốc ngón giữa cũng khác, chắc lúc còn sống có đeo nhẫn. Điều đó có nghĩa là rất có thể nạn nhân đã tự nguyện tháo đồng hồ và nhẫn nộp cho hung thủ. Khiến cho anh ta sợ hãi đến vậy, hẳn là hung thủ phải có súng.”

Đại Bảo ngẫm nghĩ, vẫn chưa vững tâm, lại rạch mở lớp da ở cổ tay và cổ chân của nạn nhân ra, xác nhận rằng trước khi chết, nạn nhân không hề bị trói, nên việc tước đoạt của cải được tiến hành một cách tự nguyện.

“Nhưng kiểu gì thì cũng không phải là cầm súng uy hϊếp đưa nạn nhân từ trung tâm phố huyện tới tận cái nơi khỉ ho cò gáy này được!” Đại Bảo nói. “Vì như thế, trên đường đi sẽ có rất nhiều cơ hội để chạy trốn.”

Tôi cúi đầu ngẫm nghĩ rồi nói: “Thôi đừng nghĩ nhiều thế nữa, có khi là người quen gây án cũng nên.”

“Người quen cướp của?” Đại Bảo nói. “Có cần phải phức tạp thế không? Còn để người ta chết đói nữa.”

Tôi không nói gì, bắt đầu cầm cưa điện cưa lấy xương hông của nạn nhân. Dù sao, xác định được đặc điểm của nạn nhân, tìm được lai lịch thi thể mới là con đường nhanh nhất để phá án.

Sau khi xác định được độ tuổi, chiều cao và cân nặng của nạn nhân, chúng tôi bảo nhân viên kỹ thuật phụ trách chụp ảnh đang đứng bên cạnh gọi điện thông báo cho điều tra viên ở tiền tuyến. Phải tìm cho ra lai lịch thi thể thì vụ án mới có được bước đột phá.

Lúc này, cậu nhân viên chụp ảnh đã nôn ọe đến mặt mũi xanh xám, vừa nghe thấy yêu cầu của tôi, lập tức ù té chạy ra khỏi phòng mổ. Trong một không gian thế này, được hít thở mấy ngụm không khí trong lành đã là một đặc ân đối với cậu ta.

*

Khi đưa tử thi còn lại ra khỏi bể rã đông, thi thể đã mềm hoàn toàn. Căn phòng giải phẫu mới toanh cùng các thiết bị rã đông tân tiến đúng là đã hỗ trợ đắc lực cho chúng tôi.

“Tiền, cứ phải có tiền mới được.” Sắc mặt Đại Bảo tràn đầy ngưỡng mộ. “Em xem hiệu quả chưa kìa, đúng là tuyệt vời. Nguồn tài lực tốt, không bị ăn bớt, đã dùng đúng chỗ đấy.”

“Em chẳng nghĩ nhiều đến thế.” Tôi ngắt lời Đại Bảo. “Anh hãy nhìn nạn nhân này mà xem, áo quần rách rưới, đến tất chân còn có mụn vá. Trời ạ, thời đại này rồi còn có người phải đi tất vá, đủ biết nghèo khó đến cỡ nào. Đối tượng cướp bóc lúc thì giàu sụ, lúc lại nghèo rớt mừng tơi, hung thủ là loại người gì không biết?”

Đại Bảo cúi đầu suy nghĩ về vấn đề mà tôi vừa đưa ra.

Tử thi đã mềm, cởi bỏ quần áo dễ dàng hơn nhiều. Tôi bày quần áo của nạn nhân xuống nền nhà, kiểm tra kỹ lưỡng các túi, hy vọng có thể tìm được thứ gì như chứng minh thư chẳng hạn.

Chẳng có cái chứng minh thư nào hết, nhưng tôi đã tìm được một tờ giấy trông như tờ biên lai. Vì thi thể bị đông cứng nên sau khi rã đông, tờ giấy đã bị thấm nước, chữ nghĩa lòe nhòe cả. Nhưng có thể thấy tờ biên lại được viết bằng giấy than, chắc là liên giao khách hàng. Phía dưới tờ giấy, tại phần người nhận tiền viết ba con chữ nguệch ngoạc: “Lý Đại Trụ”.

“Lý Đại Trụ?” Tôi hỏi. “Chắc đây là tên của nạn nhân.”

Đại Bảo mừng rỡ, hét ầm lên gọi nhân viên kỹ thuật đang đứng ngoài cửa, yêu cầu cậu ta lập tức liên hệ với điều tra viên để điều tra nhân thân của người có tên Lý Đại Trụ. Cậu ta nghe nói có thể tiếp tục ở bên ngoài phòng giải phẫu gọi điện thì mừng như bắt được vàng.

Hai cổ tay của nạn nhân có vết trói bằng dây thừng, hai bên đầu gối có vết xuất huyết dưới da rõ rệt, đó là tổn thương bị khống chế điển hình. Nạn nhân tử vong do bị hành hung bằng dao, trên cổ bị cứa một nhát dao sâu đến tận cột sống cổ. Hai bên mép vết thương không hề có vết rạch thử, chứng tỏ đó là một con dao cực kỳ sắc bén, chỉ một nhát cứa đã cắt rời yết hầu nạn nhân. Động mạch cảnh và tĩnh mạch cảnh đều bị cắt đứt, khí quản cũng bị cứa đứt một nửa, một lượng máu lớn ộc xuống khí quản, sau đó lại bị ho sặc sụa mà phun ra, trên ngực áo nạn nhân có vết máu phun rất rộng.

“Tóc nạn nhân rụng mất một đám.” Đại Bảo chỉ vào chỗ da đầu trọc lốc, nói. “Chắc là hung thủ bắt nạn nhân quỳ dưới đất, trói quặt hai tay, sau đó một tay túm tóc nạn nhân, một tay cầm dao, cứa một nhát sát hại. Nhưng vấn đề là tại sao không thấy có vết máu ở hiện trường nhỉ?”

“Ai bảo không có?” Tôi nói. “Trên l*иg sắt có vết máu phun đấy thôi, tại lúc đó em không để ý, cứ nghĩ đó chỉ là vết gỉ.”

“Nhưng em nhìn thi thể mà xem, vết hoen tử thi rất nhạt, cho thấy bị mất máu khá nhiều.” Đại Bảo nói, “vậy thì tại sao hiện trường lại chẳng có bao nhiêu vết máu?”

“Sao lại không có?” Tôi nói. “Trên sàn nhà hiện trường đầy dịch phân hủy, anh nghĩ tất cả đều là chảy từ thi thể thối rữa ra chắc? Anh nhầm rồi, có một phần lớn trong đó là máu chảy ra từ người nạn nhân này, rồi hòa lẫn vào dịch phân hủy của thi thể kia, sau đó bị phân hủy đồng thời. Kết hợp với vết máu trên l*иg sắt, về cơ bản có thể khẳng định, nạn nhân này bị sát hại ngay trước cái l*иg.”

Đại Bảo gật đầu, nói: “Nhưng anh vẫn chưa thể liên kết hai cái chết này với nhau được. Không biết là do loại người thế nào gây ra đây?”

Tôi nhấc hai tay nạn nhân lên quan sát, nói: “Đúng là người lao động chân tay, anh nhìn hai tay xem, toàn vết chai.”

Đại Bảo giơ khuỷu tay đẩy phần kính trên mặt nạ phòng độc lên, nói: “Điểm này nói lên điều gì?”

Tôi ngẩng đầu nhìn lên trần nhà, ngẫm nghĩ rồi nói: “Em đang nghĩ đến một chuyện, cái l*иg sắt bí hiểm kia chắc chắn có thể nói lên điều gì đó. Nhưng em cần phải nhờ Lâm Đào kiểm chứng đã.”