Chương 9: Vụ án thứ 2 - Tiếng súng lúc nửa đêm (4)

Vừa bước vào phòng họp của tổ chuyên án, chúng tôi đã nghe tiếng ồn ĩ phát ra từ Sở Cảnh sát. Nghe kỹ thì thấy có người đang kêu oan. Không cần nghĩ cũng biết bốn người đánh mạt chược đã bị tóm cổ về đồn.

Chúng tôi lên thẳng phòng của đội hình sự, bước vào phòng vật chứng. Bác sĩ Dương đang gắp viên gạch trong túi nilon đựng vật chứng ra.

Mặt không dính máu và hai cạnh của viên gạch đã bị hun đen, đó là do Lâm Đào hun đen để hiện dấu vân tay khi giám định. Ở mặt bị hun đen thấp thoáng ẩn hiện mấy dấu vân tay.

Dấu tay rất nhỏ, tuy không thể nhìn thấy vân tay nhưng vẫn có thể nhìn thấy các vết đốt ngón tay, ở mặt cạnh của viên gạch có vệt khá nhỏ, có lẽ là dấu ngón tay cái, song chưa đến nửa đốt, cạnh còn lại có ba dấu vân tay, lần lượt là ngón cái, ngón giữa và ngón đeo nhẫn, mỗi ngón tay chỉ lưu lại nửa đốt là cùng.

“Lạ thật! Cậu đã suy nghĩ về vấn đề này chưa?” Tôi quay sang hỏi Lâm Đào, “Thông thường khi chúng ta cầm gạch thì phải lưu lại một đốt rưỡi đến hai đốt ngón tay trên viên gạch, nhưng dấu vết ngón tay này mảnh quá, mà chỉ lưu lại nửa đốt. Dùng đầu ngón tay mà cầm gạch chẳng phải bất tiện lắm sao?”

Lâm Đào chau mày không nói.

Tôi cũng chau mày không nói.

Ngẫm nghĩ một lát, tôi bảo: “Đã không nhìn ra được dấu vân tay thì cứ kệ nó đã. Mấy gã chơi mạt chược kia đặt cược khá nhiều tiền, chắc sẽ bị xử phạt hành chính. Bắt họ vào đây chỉ là mượn cớ, cứ đợi kết quả thẩm vấn xem sao. Chúng ta về ngủ thôi!”

Lâm Đào nói: “Anh cứ về ngủ trước đi! Tôi ở lại làm nốt thí nghiệm về mấy viên đạn rồi ngủ sau.”

“Được!”

Trở về nhà khách, từng màn của vụ án cứ lờ mờ hiện ra trước mắt tôi, trực giác mách bảo vụ án này sắp được phá giải rồi. Hơn nữa động cơ gây án thể hiện rất rõ ràng, có lẽ chỉ vì bốc đồng hoặc thù hận mà thôi, bởi vậy phạm vi đối tượng cũng không rộng lắm. Vụ án ‘Kẻ dọn rác’ kia vẫn khó nhằn hơn. Liệu kẻ nào đã gây ra chuyện đó? Gϊếŧ người vô tội lại còn xóa dấu vết rất chuyên nghiệp. Mà muốn xóa dấu vết, sao lại còn viết chữ lên tường lưu lại manh mối cho cảnh sát?

Nỗi mệt mỏi mấy ngày đổ ụp xuống, tôi nghĩ mãi nghĩ mãi rồi chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay, thậm chí khi nào Lâm Đào về, tôi hoàn toàn không hay biết gì.

Tám giờ sáng hôm sau, tôi tỉnh dậy, cầm điện thoại đặt trên mặt tủ ở đầu giường xem thời gian. Con số hiện ra trên màn hình khiến tôi bỗng dưng nhớ đến câu chuyện cười mà Hàn Lượng kể. Người thuộc thế hệ bao nhiêu X thì buổi sáng sẽ tự nhiên tỉnh dậy vào lúc bấy nhiêu giờ. Xem ra luận điểm đó không tồi, có lẽ vì nó đã trải qua kiểm nghiệm thực tế.

Tôi lay Lâm Đào đang ngủ trên chiếc giường khác, cậu ta lười nhác mở mắt quay lại.

“Ừm… mấy giờ rồi heo?” Lâm Đào hỏi.

“Cậu là heo thì có!” Tôi chú ý đến sự thay đổi trong cách xưng hô của cậu ta.

“Tối qua tôi về phòng gọi anh dậy, nhưng lay kiểu gì anh vẫn ngáy khò khò. Thế chẳng phải heo thì là gì?” Lâm Đào cười cười trêu chọc.

“Tối qua phát hiện thấy gì mới không?” Tôi chuyển chủ đề.

“Chẳng có gì cả!” Lâm Đào chán chường, “Đó chỉ là mấy viên đạn tự chế rất phổ thông.”

Nhìn vẻ mặt ngập tràn thất vọng của tôi, cậu ta ngừng một lát rồi nói tiếp: “Có điều kỹ thuật chế tạo súng của anh ta còn non tay lắm, khẩu súng đó chưa hoàn thiện.”

“Cậu nói vậy là ý gì?” Tôi khấp khởi dấy lên hy vọng.

“Giữa hộp đạn và nòng súng có một khe hở.” Lâm Đào nói, “Sau khi bắn, rất nhiều thuốc súng sẽ rơi ra từ khe hở này. Lúc tôi bắn thử, nhìn báng súng dính toàn vụn thuốc súng.”

“Quá tuyệt!” Tôi ngồi bật dậy, “Thế mà cậu bảo không phát hiện ra được gì hả? Đây là phát hiện lớn, phát hiện rất quan trọng đấy!”

Lâm Đào ngơ ngác không hiểu gì.

“Lúc trong phòng khám nghiệm tử thi, tôi nhìn kỹ và thấy tay của nạn nhân không hề có hạt thuốc súng bám vào.” Tôi nói.

“Ôi giời!” Lâm Đào thất vọng ra mặt, “Chẳng phải ngay từ đầu chúng ta đã phán đoán không phải nạn nhân chết do súng cướp cò rồi còn gì?”

“Đúng thế!” Tôi nói tiếp, “Nhưng chắc chắn trên tay hung thủ phải dính bụi thuốc súng! Đây chính là manh mối, mà cũng là chứng cứ đấy!”

“Tôi cũng đã nghĩ đến vấn đề này.” Lâm Đào nói, “Nhưng rốt cuộc vụ án xảy ra từ tối hôm kia, dẫu trên tay hung thủ có dính bụi thuốc súng thì bây giờ chắc cũng đã rửa sạch rồi còn đâu?”

“Thế mới nói cậu không phải dân chuyên nghiệp! Ha ha!” Tôi cười hoan hỉ, “Khi bắn, thông thường thuốc súng cũng bay ra theo và dính vào tay của người bắn. Nhưng trường hợp này chỉ hay xảy ra trong các vụ án mạng sử dụng súng ngắn, còn trong các vụ án mạng sử dụng súng thường thì thuốc súng rất khó dính vào tay của xạ thủ, bởi vậy tôi mới bảo cậu tiến hành thí nghiệm đạn trong súng, chẳng ngờ khẩu súng này lại bị lỗi kỹ thuật khiến thuốc súng rơi ra.”

“Anh đi thẳng vào vấn đề xem nào!” Điều Lâm Đào quan tâm là bột thuốc súng liệu có bị rửa trôi hay không.

Tôi nói: “Thuốc súng bay ra khỏi súng là nhờ lực phát nổ. Khi đó thuốc súng bỏng giãy. Lớp sừng trong lòng bàn tay luôn có các khe rất nhỏ, những lỗ này đủ rộng để bột thuốc súng “trốn” vào. Rửa tay chỉ có thể làm các vụn thuốc nổ dính trên bề mặt da trôi đi, chứ không thể hoàn toàn rửa sạch những hạt bụi thuốc súng “giấu mình” trong các khe của lớp sừng. Chúng ta chỉ cần lấy kính lúp soi da, rồi dùng thiết bị bám dính là được. Đây vừa là manh mối lại vừa là chứng cứ!”

“Tôi nghĩ cũng không quan trọng nữa.” Lâm Đào nói, “Không chừng hội Hồ Lê Miêu đã khai ra rồi cũng nên.”

“Không! Không phải họ làm đâu.” Tôi khẳng định chắc như chém đinh chặt sắt.

Đến tổ chuyên án, nhìn các cảnh sát ủ rũ với vẻ mặt mệt mỏi là biết suy đoán của tôi đã chính xác.

“Tuy hỏi thêm được một vài tình tiết, nhưng tất cả đều không mấy giá trị.” Viên cảnh sát thấy tôi và Đại Bảo đi vào liền trình bày.

“Vậy sao? Anh nói cho tôi biết đã hỏi thêm được những tình tiết gì?” Tôi nói.

“Ban đầu khẩu cung của nhóm Hồ Lê Miêu rất đồng nhất, giống hệt như lúc mới báo cảnh sát.” Viên cảnh sát nói, “Nhưng sau khi chúng tôi tiến hành điều tra loại trừ thì đêm đó cả thôn chỉ có một mình nhà anh trai của Hồ Lê Miêu tổ chức đánh bạc, Hồ Kỳ về nhà lấy tiền rồi ra khỏi cửa, chắc chắn là đi đến nhà họ đánh bạc. Dùng chiêu lần trước, chúng tôi đã tiến hành thẩm tra sâu hơn. Kết quả cho thấy khẩu cung của bọn họ rất giống nhau: Hồ Kỳ đi ngang qua cổng nhà họ lúc hơn chín giờ tối, vào cửa thấy họ đang đánh mạt chược thì bỏ đi. Khoảng hơn hai mươi phút sau, Hồ Kỳ trở lại nhà họ, yêu cầu Hồ Lê Miêu nhường vị trí cho anh ta đánh. Mấy người họ đều biết Hồ Kỳ thắng thì chạy làng mà thua thì ì ra không trả tiền nên đều không muốn cho anh ta đánh cùng. Anh ta liền móc mấy trăm tệ ra, nói rằng lần này nhất định sẽ không chầy bửa bùng nợ nữa. Song họ vẫn không đồng ý. Hồ Kỳ tức giận phừng phừng chạy đi. Họ sợ cái chết của Hồ Kỳ dính líu đến mình nên mới bảo nhau khai cùng một khuôn.”

“Sau đó thì sao?” Tôi hỏi.

“Lát sau họ nghe thấy tiếng súng nổ.” Viên cảnh sát nói, “Họ ra ngoài cửa thấy Hồ Kỳ ở đằng xa đang đi loạng choạng nên cũng không để ý nhiều. Mấy người họ đều khai như vậy.”

“Xem ra họ không nói dối.” Lâm Đào từ ngoài bước vào. Trước đó tôi đã bảo cậu ta đi xem tay của nhóm người Hồ Lê Miêu trong phòng thẩm vấn, nhưng tay họ đều không có dấu vết của thuốc súng.

“Đã vậy thì tôi nảy ra một luồng suy nghĩ mới.” Tôi day huyệt thái dương như thể làm thế trí tuệ sẽ cung cấp thêm sức mạnh cho mình.

“Anh nói xem nào!” Một đêm mất ngủ khiến viên cảnh sát nói với giọng vô cùng uể oải.

Tôi nói: “Đầu tiên, tôi cho rằng hung thủ là nữ.”

“Là phụ nữ sao?” Khóe môi viên cảnh sát nhếch lên thành nụ cười không tin tưởng, “Anh căn cứ vào đâu mà phán đoán thế?”

“Thứ nhất, tôi căn cứ vào viên gạch tang chứng để lại hiện trường.” Tôi vừa bật máy chiếu vừa nói, “Hai cạnh của viên gạch chỉ có dấu của đầu ngón tay mà không có dấu của các đốt ngón tay. Dùng đầu ngón tay để cầm gạch e rằng rất khó, nên chẳng ai cầm như vậy bao giờ… ngoại trừ tay của người đó rất nhỏ, đành phải cầm như vậy.”

Tôi ngừng một lát, rồi nói tiếp: “Kích thước tiêu chuẩn của một viên gạch có độ rộng là hai mươi centimet. Tay của người đàn ông bình thường đều có thể áp bụng ngón tay vào hai thành viên gạch khi cầm nó lên, nhưng tay của phụ nữ nhỏ và ngắn hơn nên chỉ đủ với đầu ngón tay lên hai thành.”

Có người đồng ý, có người nghi ngờ suy đoán của tôi.

Tôi nói tiếp: “Thứ hai, khi dùng viên gạch đánh thẳng vào đầu thì sẽ gây ra vết thương tương đối nghiêm trọng, nhưng ở đây, người chết chỉ bị xây xước nhẹ ở phần da đầu và tụ máu dưới da, hộp sọ không hề bị nứt vỡ, màng cứng cũng không xuất huyết, vết thương ở mô não cũng rất nhẹ. Điều này chứng tỏ lực từ tay của hung thủ rất yếu. Tổng hợp hai điểm nói trên, tôi kết luận rất có thể hung thủ là nữ.”

“Tại sao một phụ nữ lại muốn gϊếŧ anh ta?” Tổ trưởng tổ điều tra hỏi, “Khi điều tra, các anh có phát hiện thấy anh ta nảy sinh quan hệ trai gái bất chính nào không?”

Tôi nói: “Đây chính là vấn đề thứ hai. Có lẽ hung thủ và nạn nhân quen nhau, hơn nữa quan hệ của họ rất gần gũi. Chúng ta có thể tạm thời tái hiện lại hiện trường thế này: Nạn nhân bị hung thủ đập gạch vào gáy, sau đó ngã xuống đất. Khẩu súng anh ta đang cầm trên tay rơi ngay cạnh. Hung thủ liền nhặt súng lên, bắn vào đùi anh ta một phát.”

“Nạn nhân bị bắn trong tư thế nằm sao?” Đại Bảo xen lời.

“Đương nhiên cũng có khả năng là ở tư thế ngồi.” Tôi nói, “Đường đạn và xương đùi gần như song song nhau, hướng đạn đi từ dưới xuyên ngược lên trên. Khẩu súng dài như thế, trừ phi hai chân của nạn nhân duỗi thẳng, bằng không sẽ không thể hình thành vết thương kiểu này được.”

“Có lý!” Đại Bảo gật gù, “Nhưng nạn nhân và hung thủ không có mối quan hệ nam nữ bất chính, mà anh lại nói họ có mối quan hệ gần gũi là sao?”

Tôi nói tiếp: “Trong suốt quá trình này, mấy người đánh bạc bị loại khỏi danh sách kẻ tình nghi kia đã nói họ không hề nghe thấy động tĩnh gì lúc xảy ra vụ án, điều đó chứng tỏ nạn nhân không hề sợ hung thủ, anh ta còn cho rằng hung thủ không dám bắn mình, anh ta không cần phải kháng cự, cũng không cần hét lên kêu cứu. Sau khi bị bắn, vì quá sợ hãi, cộng thêm mất máu quá nhiều và tác dụng của rượu đối với cơ thể nên anh ta không có cách nào hét lên kêu cứu.”

Tôi thấy mọi người đang vội vã ghi chép lại những phân tích của tôi nên dừng lại uống một ngụm trà cho họ có thời gian ghi chép cẩn thận hơn, sau đó mới nói tiếp: “Vấn đề thứ ba, tôi nhận ra nơi ở của hung thủ có lẽ ở trong ngõ cách hiện trường khoảng một trăm mét quặt về phía tây. Tổng hợp môi trường xung quanh của hiện trường sẽ thấy nếu hung thủ chạy về phía đông thì buộc phải đi qua nhà của anh trai Hồ Lê Miêu, mà nếu muốn chạy xa hiện trường tầm ba trăm mét, chí ít phải mất hơn một phút. Vậy thì những người đánh bạc chỉ cần hai mươi giây là chạy được ra ngoài cửa xem động tĩnh chắc chắn sẽ nhìn thấy hung thủ. Nếu hung thủ chạy về phía tây, chỉ cần hai mươi giây là có thể chạy xa ngoài một trăm mét, nếu chạy ngang con ngõ đó và tiếp tục về hướng tây thì hung thủ sẽ bị những người sống ở phía đông cách đó mấy trăm mét nhìn thấy. Bởi vậy, trong vòng hai mươi giây ít ỏi đó, nếu hung thủ ngoặt vào trong ngõ thì có thể hoàn toàn tránh khỏi con mắt của mọi người. Tôi đã quan sát hiện trường, con ngõ đó được nhà vệ sinh công cộng che chắn nên nhóm người đánh mạt chược không nhìn thấy mọi việc diễn ra bên trong.”

“Trong ngõ đó có bảy tám hộ gia đình sinh sống cơ đấy!” Viên cảnh sát nói, “Bao gồm cả nhà nạn nhân.”

Tôi cười nói: “Vấn đề thứ tư, mọi người có từng nghĩ vì sao hung thủ lại đánh nạn nhân không? Tôi nói là đánh chứ không phải là gϊếŧ. Khi đó nạn nhân nằm trên đất, vì tác dụng của rượu nên gần như không phản kháng gì. Nếu hung thủ muốn gϊếŧ người thì đánh vào bất cứ chỗ nào cũng có thể gϊếŧ chết nạn nhân, vậy tại sao hung thủ lại chọn cách khó có thể khiến nạn nhân chết nhất, đó là bắn vào đùi? Đương nhiên việc bắn vỡ động mạch đùi là kết quả mà chính hung thủ cũng không ngờ tới. Kết hợp với điều tra của cảnh sát, sau khi nạn nhân uống nhiều rượu đã lấy chân đạp vợ mình, rồi chạy khắp thôn sinh sự. Vậy người căm hận cái chân đó của anh ta nhất, ghét việc anh ta chạy khắp thôn kiếm chuyên nhất và cũng vì việc này mà cảm thấy mất mặt nhất chắc chắn chính là vợ của anh ta.”

“Trước khi anh ta bị sát hại còn đạp vợ một cái đấy!” Đại Bảo nhắc lại cho mọi người nhớ.

“Bởi vậy tôi cho rằng đây là vụ án mạng gây ra do một phút nóng giận mà thôi.” Tôi kết luận.

“Anh nói cũng có lý.” Tổ trưởng tổ trinh sát gật đầu, “Có điều chúng tôi không có chứng cớ, cũng không biết làm cách nào xác định cô Trương Việt, vợ nạn nhân chính là hung thủ, mà không có chứng cứ thì không thể định tội được cô ta trước pháp luật.”

“Có cách đấy!” Tôi nheo mắt cười, rồi lấy chiếc kính lúp từ trong cặp ra.

Đây là chiếc kính lúp viền bọc kim loại, cán bằng gỗ đỏ, chế tạo rất tinh xảo. Nó là món quà sinh nhật mà cậu bạn thân Bao Bao tặng tôi. Xem ra giờ là lúc nó phát huy được công dụng của mình rồi!

Tôi nói: “Khẩu súng do nạn nhân tự chế có một khiếm khuyết, đó là hộp đạn không kín hoàn toàn, thuốc súng sẽ rơi ra từ chỗ cò súng, dính vào tay của người bóp cò. Vì lúc đó thuốc súng đang rất nóng nên nó sẽ dính chặt vào tay của người cầm súng và rất khó rửa sạch. Chỉ cần các anh lấy kính lúp này soi vào tay của Trương Việt xem có tàn dư thuốc súng không là được.”

“Được!” Niềm vui bất ngờ khiến tổ chuyên án tăng thêm niềm tin gấp bội, họ vội mang theo kính lúp của tôi rời khỏi đồn cảnh sát.

Có lẽ vì hoảng sợ và dằn vặt nên khi cảnh sát đến nhà nạn nhân lần thứ hai, thì vợ nạn nhân là Trương Việt đã ngoan ngoãn đưa hai tay vào còng số tám. Thậm chí cảnh sát còn không có cơ hội sử dụng chiếc kính lúp mà tôi đưa cho. Vậy là vụ án được phá giải.

Trên đường áp giải Trương Việt về đồn cảnh sát, nhân viên kỹ thuật hình sự đã sử dụng dụng cụ bám dính lấy thuốc súng tàn dư trên tay cô ta để dùng làm bằng chứng khi đưa ra tòa án xử tội.

Người đàn bà phong sương khắc khổ đã khóc và thành thật thừa nhận toàn bộ tội lỗi của mình sau khi vào phòng thẩm vấn.

Năm mười tám tuổi, Trương Việt được gả vào thôn Hồ Gia, trở thành vợ của Hồ Kỳ. Vẻ ngoài xinh xắn hơn người của Trương Việt khiến Hồ Kỳ vô cùng yêu thương cô, nhưng sau đám cưới một thời gian, bản chất Hồ Kỳ dần dần lộ rõ. Ăn sang, uống rượu, chơi gái, đánh bạc, trộm cắp… không thiếu khoản nào, đã thế lại hay gây gổ, sinh sự với hàng xóm và người thân. Ngay cả khi Hồ Kỳ đi trên đường, cô cũng cảm thấy người dân trong thôn chỉ chỉ trỏ trỏ khiến cô rất xấu hổ. Điều khiến cô không thể chịu nổi nhất chính là thói vũ phu sau khi uống rượu của Hồ Kỳ. Cô bị Hồ Kỳ đánh đập như cơm bữa. Cô đã nghĩ đến ly hôn, nhưng Hồ Kỳ liên tục giở ba trò, thứ nhất là khóc, thứ hai là gào, thứ ba là treo cổ, nhiều lần như vậy khiến cô mềm lòng. Trong lúc tuyệt vọng, cô từng nghĩ đến việc tự sát, nhưng cô không nỡ bỏ đứa con trai mới học tiểu học ở lại một mình. Con trai cô rất ngoan ngoãn, mặc dù bản thân và mẹ thường xuyên bị bố đánh, nhưng cậu bé luôn nhịn đau để an ủi mẹ.

May mà mẹ chồng cô rất tốt, luôn đứng về phía Trương Việt. Nhưng hai người phụ nữ yếu đuối và một đứa trẻ thì làm sao đấu lại được một người đàn ông khỏe mạnh, cao lớn.

Trước đêm xảy ra án mạng, Hồ Kỳ lại uống rượu say và đánh cô, sau đó xách súng ra khỏi nhà. Lần này khác với những lần trước ở chỗ: vật anh ta mang theo là súng! Trước đây anh ta đều tỏ vẻ anh hùng, nhưng cũng chỉ chửi bới cho sướиɠ miệng, chưa bao giờ dám đánh nhau với người ta, nhưng lần này anh ta có súng, hơn nữa lại uống nhiều như thế, ai mà biết được sẽ xảy ra chuyện gì?

Trương Việt càng nghĩ càng sợ, liền đuổi theo sau. Cô định gọi để ngăn Hồ Kỳ lại nhưng Hồ Kỳ căn bản không chịu xuống nước, ngược lại còn lên nòng sẵn sàng và tiến thẳng về phía trước. Trương Việt nhặt một viên gạch ở ven đường định đánh ngất Hồ Kỳ. Đáng tiếc sức cô quá yếu nên chỉ làm Hồ Kỳ ngã ra đất. Anh ta trừng mắt tức giận, định bò dậy đánh cô. Cô vội vàng nhặt khẩu súng lên, ngắm thẳng vào Hồ Kỳ. Hồ Kỳ nhếch miệng cười nói: “Bắn đi! Cô dám gϊếŧ chồng à? Nổ súng đi!”

Bao nhiêu cảm xúc hỗn độn ập đến, trong lúc bốc đồng, Trương Việt đã bóp cò. Tuy bốc đồng nhưng đàn bà luôn yêu đuối, bởi vậy cô nhích xuống phía dưới và bắn vào đùi anh ta. Cô nghĩ phải bắn để dạy cho anh ta một bài học, ít nhất trong thời gian ngắn không dám gây họa hại người khác nữa, coi như thế là tích đức cho hàng xóm láng giềng. Vả lại lự sát thương của súng không lớn lắm, chỉ cần lập tức cõng anh ta đi cấp cứu là xong.

Nào ngờ cùng lúc tiếng súng vang lên thì máu phun ra dữ dội, máu phun ồ ạt đến mức không thể nào cầm lại được. Cảnh tượng ấy khiến Trương Việt sợ hãi tột độ, cô quay người bỏ chạy. Chạy về đến nhà, cô liền kể hết mọi chuyện cho mẹ chồng nghe. Mẹ chồng vội cùng cô trở lại hiện trường, nhưng lúc đó Hồ Kỳ đã tắt thở.

Đó là con trai mình nên bà đau đớn như đứt từng khúc ruột, nhưng Triệu Tú Liên cũng hiểu rõ nếu để lại nghiệt chủng này thì chỉ sợ sau này bà còn phải nhận những hậu quả không thể nào lường trước được.

“Chúng ta cứ coi như súng bị cướp cò và nó tự bắn chết nó. Sau này con không phải con dâu của mẹ nữa mà con là con gái của mẹ.” Triệu Tú Liên thở dài.

Trương Việt quỳ xuống đất khóc nức nở: “Mẹ…”

*

“Tôi bảo này, liệu chúng ta có cần điều tra rõ chân tướng sự thật không? Có nên coi đây là vụ súng cướp cò khiến nạn nhân tử vong mà kết thúc vụ án không?” Khóe mắt Trần Thi Vũ hoen đỏ, cô khẽ lên tiếng.

Tôi biết đây là quá trình tâm lý mà bất kỳ một cảnh sát hình sự nào đều phải trải qua. Tôi lắc đầu, đáp lại bằng giọng an ủi: “Tình người là tình người, pháp luật là pháp luật, pháp luật không thể dung nạp tình cảm, chân tướng sự thật cũng không thể dung nạp tình cảm.”

“Anh có cần tàn nhẫn thế không?” Đại Bảo cũng phụ họa theo Trần Thi Vũ, “Cô ấy đáng thương quá! Hơn nữa đứa nhỏ vừa mất cha lại vừa mất mẹ, nó biết phải làm sao?”

Tôi biết không phải mình tàn nhẫn, bởi vì khi ấy tim tôi cũng nhói đau, nó nhói đau vì lòng trắc ẩn đối với người đàn bà tội nghiệp. Nó khiến tôi hoài nghi ý nghĩa công việc của mình.

Nhưng cuối cùng, tôi vẫn rắn rỏi nói: “Chúng ta phân tích đây là vụ đánh người gây thương tích dẫn đến tử vong, chứ không phải vụ cố ý gϊếŧ người. Điều này nhất định phải viết rõ trong báo cáo phân tích hiện trường. Việc chúng ta có thể giúp cô ấy chỉ chừng ấy mà thôi!”