Chương 10

Dịch giả: Seraphy, GtaMaster, Jr, Hoa Thần, JediDarkLord

Jill đẩy chiếc huy hiệu bằng đồng đỏ nặng trịch có khắc hình ngôi sao ở bên cạnh vào đúng vị trí của nó - vị trí trên cùng trên tấm bảng kim loại. Nó trượt vào lỗ nghe "cách" một cái, bề mặt tấm bảng kim loại lại trở nên bằng phẳng.

“Một cái đã vào vị trí...”

Cô bước lùi lại trước cái khóa kỳ lạ, mỉm cười hân hoan.

Lũ quạ vẫn quan sát cô khi cô đi ngang qua cái sảnh trưng bày tranh, chúng không hề rời khỏi vị trí, thi thoảng chúng lại kêu ré lên trong lúc cô đang giải câu đố đơn giản. Có sáu bức chân dung tất cả, từ cái nôi đến ngôi mộ - tức là từ đứa bé sơ sinh tới người đàn ông lớn tuổi có bộ mặt nghiêm nghị. Cô cho rằng tất cả những bức tranh chân dung đó là của Ngài Spencer, mặc dù cô chưa từng nhìn thấy bức ảnh nào của ông.

Bức tranh cuối cùng vẽ một khung cảnh thật tang thương, một người đàn ông xanh xao đang nằm trang trọng giữa những người than khóc đứng đầy xung quanh. Khi cô bật công tắc ở bức tranh đó, bức tranh liền bị bốn cái chốt nhỏ xíu bằng kim loại ở bốn góc đẩy cho rơi xuống khỏi bức tường. Đằng sau bức tranh có một cái hốc nhỏ, bọc nhung, trong đựng chiếc huy hiệu bằng đồng đỏ. Sau đó, cô đã rời khỏi căn sảnh mà không gặp phải bất cứ khó khăn gì; trừ một điều cô không chắc lắm là liệu lũ chim có cảm thấy thất vọng hay không.

Cô hít một hơi cuối cùng thật sâu cái không khí dễ chịu buổi đêm trước khi quay trở lại ngôi nhà, vừa đi cô vừa rút chiếc máy tính của Trent ra khỏi ba lô. Cô bước từng bước một cách thận trọng qua cái xác nhàu nát nằm giữa hành lang mờ tối, rồi cô kiểm tra lại tấm bản đồ, băn khoăn không biết nên đi đâu tiếp theo.

Có vẻ như là cô sẽ phải trở lại con đường mà cô đã dùng để đi đến đây. Cô quay về cánh cửa đôi nối giữa dãy hành lang và thấy mình bước vào một hành lang uốn khúc, ấm áp, màu xanh xám với những bức tranh phong cảnh treo trên tường. Theo như tấm bản đồ thì cánh cửa đơn ngang chỗ cô đứng sẽ dẫn tới một căn phòng nhỏ hình vuông, và sau đó căn phòng này sẽ dẫn đến một căn phòng khác lớn hơn.

Hồi hộp, cô vặn tay nắm cửa rồi đẩy nó mở ra, vừa khom người vừa chĩa khẩu Beretta xung quanh. Quả thật căn phòng nhỏ có hình vuông và hoàn toàn trống rỗng.

Jill bước ngang qua căn phòng, cô tiến tới cánh cửa phía bên phải, vừa đi vừa ngắm nghía những đường nét đơn giản nhưng thanh lịch của căn phòng. Nó có một cái trần cao, sáng sủa với những bức tường ốp đá cẩm thạch màu kem lốm đốm vàng; tuyệt đẹp. Và thật đắt tiền, ít nhất cô có thể nói như vậy. Tự nhiên, cô cảm thấy bâng khuâng nhớ lại những ngày tháng cũ khi cô còn sống với bố cô, nhớ lại những kế hoạch và hy vọng to lớn của hai cha con mỗi khi họ thành công. Và đây là thứ mà đồng tiền chân chính có thể mua được.

Cô đã chuẩn bị tinh thần sẵn sàng, cô nắm lấy cái then cửa kim loại lạnh lẽo rồi đẩy nó mở ra. Khẩu Beretta quét nhanh một đường và rồi cô thở phào nhẹ nhõm; chỉ có mình cô ở đây.

Có một cái lò sưởi mốc meo phía bên tay phải, ngay dưới tấm thảm thêu hoa mỹ màu đỏ vàng. Một chiếc ghế tràng kỷ hiện đại cùng chiếc bàn uống cà phê thấp hình bầu dục đặt trên tấm thảm kiểu phương Đông rám nắng màu da cam, và dựa vào bức tường phía sau căn phòng - là một khẩu shotgun pump - action, được đặt trên hai cái móc, sáng lấp lánh dưới ánh sáng của cái đèn kiểu cổ đang chiếu thẳng xuống từ phía trên. Jill nhoẻn miệng cười, cô vội bước ngang qua căn phòng và không thể tin rằng mình lại gặp may đến thế.

“Cầu trời cho nó nạp đầy đạn, cầu trời cho nó nạp đầy đạn.”

Khi cô dừng lại trước khẩu shotgun, cô nhận ra khẩu súng này tuy hơi nặng đối với cô, nhưng nó lại cùng loại với những khẩu shotgun mà đội S.T.A.R.S. thường dùng: loại Remington M870, bắn 5 phát liền.

Cô cất khẩu Beretta đi rồi dùng hai tay nâng khẩu shotgun lên, miệng vẫn cười tươi - nhưng ngay lập tức nụ cười của cô biến mất khi thấy cả hai cái móc được nhấc lên sau khi thoát khỏi trọng lượng của khẩu súng. Cùng lúc đó, một tiếng động ầm ĩ phía sau bức tường phát ra, nghe như tiếng kim loại đang hoán đổi vị trí cho nhau.

Jill không biết tiếng động đó là gì, nhưng cô cảm thấy không thích nó một chút nào. Cô nhanh chóng quay lưng lại, kiểm tra quanh phòng xem có cái gì di chuyển không. Căn phòng vẫn nguyên xi như lúc cô bước vào, không hề có lấy một tiếng chim gào thét, cũng không có tiếng báo động hay ánh đèn lóe sáng đột ngột, và cũng chẳng có bức tranh nào rơi khỏi mấy bức tường cả. Nói chung là không có cái bẫy nào hết.

Yên lòng, cô nhanh chóng kiểm tra lại khẩu súng và thấy rằng nó đã được nạp đầy đạn. Ai đó đã lau chùi nòng súng sạch sẽ, cả khẩu súng bốc lên mùi dầu nhẹ, và đó là cái mùi tuyệt nhất mà cô có thể tưởng tượng ra. Trọng lượng của khẩu súng đè nặng trên cánh tay khiến cô cảm thấy vững dạ, đó là trọng lượng của sức mạnh.

Cô tìm kiếm khắp những chỗ còn lại trong căn phòng, nhưng thất vọng khi thấy không còn một viên đạn nào khác cả. Tuy nhiên, dù gì thì khẩu Remington vẫn là một phát hiện.

Tất cả áo khoác của đội S.T.A.R.S. đều có một bao đựng shotgun hoặc súng trường phía sau lưng, nên mặc dù cô không giỏi lắm việc rút súng vượt - qua vai, nhưng ít ra thì cô cũng có thể mang nó theo mà không bị mỏi tay.

Chẳng còn gì thú vị trong căn phòng. Jill bước về phía cánh cửa, cô cảm thấy thích thú với việc quay trở lại sảnh chính và nói cho Barry biết về những phát hiện mới của mình. Cô đã kiểm tra tất cả các căn phòng mà cô có thể vào được ở phía bên này của tầng một. Nếu Barry cũng đã kiểm tra hết như cô ở phía còn lại thì họ có thể lên tầng trên và kết thúc quá trình tìm kiếm đội Bravo cùng những thành viên còn thiếu của đội mình.

Và sau đó, biết đâu lại có thể thoát luôn khỏi cái nhà xác này. Cô đóng cửa lại sau lưng rồi sải chân qua căn phòng lát đá màu xám đen, hy vọng, khi cô nắm lấy tay nắm cửa, rằng Barry đã tìm thấy Chris và Wesker rồi.

“Vì rõ ràng là bọn họ đã không đi lối này.”

Cánh cửa đã bị khóa lại. Jill cau mày, vặn tới vặn lui tay nắm nhỏ màu vàng. Có tiếng lách cách nhỏ nhưng cánh cửa không hề động đậy. Cô dí sát mắt vào khe hở giữa cánh cửa và cái khung cửa, đột nhiên cô cảm thấy chột dạ.

Đây rồi, mặt kia của cánh cửa, cạnh tay nắm là đoạn then cửa bằng thép đã chốt lại, loại then rất chắc; khu vực còn lại xung quanh cái then cửa lại còn được gia cố. Còn bên này thì chỉ có duy nhất một lỗ khóa và cái tay nắm cửa mà thôi...

Cách! Cách! Cách!

Bụi từ trên trần nhà tự nhiên rơi xuống như mưa trong khi tiếng bánh răng di chuyển tràn ngập căn phòng, tiếng kim loại chạm nhau lách cách đều đều khó hiểu phát ra đâu đó đằng sau những bức tường lát đá.

“Cái gì?”

Giật mình hoảng hốt, Jill ngó lên trần nhà và ngay lập tức cô cảm thấy bụng mình đau quặn, hơi thở mắc nghẹn lại giữa cổ họng. Trần nhà cao vút, mà lúc trước cô vừa mới ngắm nhìn một cách thích thú, đang di chuyển, đá cẩm thạch ở bốn góc phòng bị nghiền nát thành bụi, tiếng đá nghiến vào nhau kêu ken két. Trần nhà đang hạ xuống.

Trong nháy mắt cô phóng đến cánh cửa dẫn trở lại căn phòng có cây shotgun. Cô vồ lấy tay nắm cửa, đẩy thật mạnh...

... và phát hiện ra nó đã bị khóa cứng như cánh cửa đầu tiên.

“Thôi chết! Không may rồi! Không may rồi!”

Càng lúc càng hoảng loạn, Jill vừa chạy ngược trở lại cánh cửa đầu tiên vừa nhìn trần nhà đang sập xuống với ánh mắt kinh hoàng. Với vận tốc 2 đến 3 inches một giây thế này thì chỉ chưa đầy một phút nữa, nó sẽ chạm tới tận sàn.

Jill nâng khẩu shotgun lên, chĩa vào cánh cửa dẫn tới hành lang, cố gạt bỏ suy nghĩ ra khỏi đầu rằng sẽ phải mất bao nhiêu phát đạn thì mới thổi bay được cái then cửa làm bằng thép cứng đã được gia cố xung quanh như thế; bắn phá cửa là tất cả những gì cô có thể làm bây giờ vì dụng cụ của cô không thể phá nổi loại khóa như thế này.

Loạt đạn đầu tiên bắn về phía cái cửa, gỗ vụn bay vèo vèo, và điều cô lo sợ đã trở thành hiện thực. Tấm kim loại hỗ trợ cho cái then kéo dài hết cánh cửa. Suy nghĩ của cô bắt đầu rộn lên, đua nhau tìm câu trả lời, nhưng kết quả lại hoàn toàn là con số không. Cô không có đủ đạn để bắn thủng cánh cửa trong khi khẩu Beretta thì hỏa lực lại không đủ mạnh, đạn của nó bị bẹp dí ngay khi chạm vào cánh cửa.

“Biết đâu mình có thể làm cánh cửa yếu đi, phải tiếp tục phá nó thôi.”

Cô lại bắt đầu bắn, nhắm thẳng vào khung cửa. Phát đạn vang như sấm rền, khoét lỗ trên rìa cánh cửa và đục vỡ đá hoa cương, nhưng không ăn thua, thậm chí cự ly còn chưa đủ gần. Trần nhà vẫn tiếp tục hạ xuống trong tiếng lách cách đều đều, giờ thì từ đầu cô đến trần nhà chỉ còn cách nhau chưa đến 10 feet. Cô sắp sửa bị nó đè nghiến lên người cho đến chết.

Chúa ơi, con không muốn chết như thế này.

"Jill? Có phải cô đấy không?"

Một giọng nghèn nghẹt phát ra từ phía ngoài hành lang, và đột nhiên cô cảm thấy một niềm hy vọng tràn trề khi nghe thấy tiếng gọi vừa rồi.

Barry.

"Cứu em! Barry, phá cái cửa này ra!", Jill gào lên, giọng cô run rẩy và cao vút.

"Lùi lại đi!"

Jill loạng choạng né sang một bên khi cô nghe thấy tiếng huých mạnh vào cánh cửa. Cánh cửa gỗ rung lên bần bật nhưng vẫn đứng yên. Jill hét lên một tiếng nhỏ, đầy thất vọng, ánh mắt cô khiếp sợ hết nhìn cánh cửa lại nhìn lên trần nhà.

Lại một cú huých mạnh nữa khiến cánh cửa rung chuyển. Trần nhà chỉ còn cách đầu cô có 5 feet.

“Coi nào, coi NÀO.”

Cú huých thứ ba, cánh cửa kêu lên răng rắc, vụn gỗ bay tứ tung. Cánh cửa bật mở, Barry đứng ngay trước ngưỡng cửa, mặt anh ửng đỏ nhễ nhại mồ hôi, tay anh lần tìm về phía cô.

Jill liền chạy lên phía trước và ngay lập tức anh nắm lấy cổ tay cô, kéo giật trờ lại về phía hành lang. Cả hai ngã nhào ra sàn nhà trong khi sau lưng họ, cánh cửa của căn phòng đang bị nghiến bay khỏi tấm bản lề. Tiếng gỗ và kim loại kêu lên ầm ĩ trong khi trần nhà đang tiếp tục sập xuống, cánh cửa dần dần nứt toác rồi vỡ vụn.

Với một tiếng "rầm" vang dội cuối cùng, trần nhà đã chạm tới mặt sàn. Căn nhà lại trở lại yên tĩnh như một nấm mồ. Họ lảo đảo đứng dậy, Jill nhìn chằm chằm cái ô cửa. Toàn bộ khung cửa đã bị chặn lại bởi một lớp đá cứng ít nhất phải nặng đến vài tấn mà lúc trước chính là cái trần nhà.

"Cô không sao chứ?", Barry hỏi.

Phải mất một lúc, Jill không nói được câu nào. Cô nhìn xuống khẩu shotgun mà cô vẫn đang cầm trên đôi cánh tay run rẩy, nhớ lại lúc trước cô đã tự tin đến thế nào khi cho rằng không có cái bẫy nào hết và đây là lần đầu tiên, cô tự hỏi, làm thế nào mà bọn cô có thể thoát ra khỏi cái ngôi nhà khủng khiếp như thế này được.

Họ đứng giữa căn sảnh trước trống rỗng, Chris đi đi lại lại trên tấm thảm phía trước cầu thang, còn Rebecca thì bồn chồn đứng cạnh lan can. Căn sảnh chính đồ sộ vẫn lạnh lẽo và đáng ngại y như lần đầu tiên Chris nhìn thấy nó, những bức tường lặng câm như không muốn thổ lộ ra bất kỳ bí mật nào của chúng; còn cả đội S.T.A.R.S. thì đã đi rồi, và không có một dấu hiệu nào cho biết họ đã đi đâu hay lý do tại sao. Từ đâu đó sâu trong tòa nhà, có tiếng ầm ầm nặng nề phát ra, giống như tiếng một cánh cửa khổng lồ vừa bị đóng sập lại. Cả hai đều ngẩng đầu lên, nghe ngóng, nhưng không nghe thêm gì nữa. Chris thậm chí còn không thể nói được âm thanh đó được phát ra từ hướng nào.

Tuyệt thật đấy, phải nói là "hết xẩy". Lũ zombie, bọn khoa học gia điên loạn, và giờ thì đến lượt thứ gì đó va đập vào nhau kêu ầm ĩ giữa đêm khuya. Rõ thật khôi hài.

Anh cười với Rebecca, hy vọng rằng trông anh không đến nỗi bối rối như anh đang cảm thấy trong lòng.

"Lạ thật, chẳng thấy ai để lại tin nhắn gì cả. Anh nghĩ chúng ta phải tiến hành kế hoạch B thôi."

"Kế hoạch B là gì hả anh?"

Chris thở dài:"Anh cũng chưa biết nữa. Nhưng chúng mình có thể bắt đầu kiểm tra thử căn phòng thứ hai có hình thanh kiếm khắc cạnh lỗ khóa xem sao. Biết đâu lại tìm thấy thêm thông tin nào đấy hữu ích như một tấm bản đồ hay đại loại thế chẳng hạn, trong khi chờ cả đội tập hợp lại."

Rebecca gật đầu, và thế là Chris dẫn đường cùng cô quay ngược trở lại, đi xuyên qua căn phòng ăn. Anh không thích cái ý tưởng là cứ phải đưa cô đến những chổ có thể có những mối nguy hiểm đang rình rập, nhưng anh lại càng không muốn để cô phải ở lại một mình, ít nhất là ở căn sảnh chính; đó là nơi trông không an toàn chút nào.

Khi họ đang đi ngang qua cái đồng hồ quả lắc cũ kỹ thì có thứ gì đó cứng cứng, nhỏ xíu vỡ ra kêu canh cách dưới gót giầy của Chris. Anh cúi xuống và nhặt lên một miếng thạch cao màu xám đen. Có hai ba miếng tương tự cũng rơi ở gần đó.

"Em có để ý thấy mấy miếng thạch cao này trong lần trước khi chúng mình đi ngang qua đây không?", Anh hỏi.

Rebecca lắc đầu, Chris liền cúi xuống, tìm thêm những miếng khác tương tự. Và anh phát hiện ra phía bên kia bàn ăn cũng có một đống những mảnh vỡ như thế.

Họ nhanh chóng vòng qua phía cuối của chiếc bàn dài, ngang qua cái lò sưởi được trang trí tỉ mỉ rồi dừng lại trước đống mảnh vỡ tan tành. Chris di mũi giày vào giữa đống mảnh vỡ màu xám. Theo hình dạng và các góc cạnh của chúng, có vẻ như đây là những mảnh vỡ của một bức tượng hay cái gì đó tương tự.

Nhưng cho dù nó từng là cái gì đi chăng nữa thì bây giờ nó cũng chỉ còn là một đống rác rưởi mà thôi.

"Cái này có quan trọng không anh?", Rebecca hỏi.

Chris nhún vai: "Có thể có, cũng có thể không. Dù gì thì anh thấy cũng đáng để xem xét. Trong một hoàn cảnh như thế này thì chúng ta không tài nào có thể biết được liệu thứ gì đó có thể trở thành một manh mối hay không."

Tiếng tích tắc phát ra từ chiếc đồng hồ cổ đi theo họ tới tận cửa hành lang, hòa cùng với mùi thối rữa tràn ngập trong hành lang chật hẹp. Chris rút chiếc chìa khóa bạc ra khỏi túi khi họ rẽ sang bên phải rồi anh dừng lại, anh nhanh chóng rút khẩu Beretta ra và tiến sát vào người Rebecca. Cánh cửa cuối hành lang đã bị đóng lại; lúc nãy khi họ rời khỏi chỗ này, nó vẫn còn mở.

Không một thứ gì hiện ra trong tầm nhìn, cũng không có gì di chuyển trong hành lang, nhưng chắc hẳn ai đó đã đi ngang qua lối này khi Chris và Rebecca còn đang ở ngoài đại sảnh. Suy nghĩ đó thêm một lần nữa tạo cho Chris cảm giác lo lắng rằng có điều gì đó bí mật đang xảy ra khắp xung quanh ngôi nhà này. Con quái vật đã chết ở bên trái chỗ họ đứng vẫn nằm đúng vị trí cũ, đôi mắt ngập đầy máu của nó nhìn chằm chằm vô định lên cái trần nhà thấp, và Chris lại băn khoăn tự hỏi rằng ai đã giết nó. Anh biết là anh nên kiểm tra cái xác và khu vực không an toàn phía sau nó, nhưng anh lại không muốn làm vậy trước khi anh tìm được chỗ ẩn náu an toàn cho Rebecca.

"Đi thôi!", anh thì thầm, họ tiến về phía cánh cửa bị khóa, Chris đưa chìa khóa cho Rebecca để anh có thể trông chừng hành lang xem có con quái vật nào tấn công họ không. Và với một tiếng "cách" nhỏ, cánh cửa đóng ván cầu kỳ đã được mở khóa, Rebecca nhẹ nhàng đẩy nó mở ra.

Căn phòng trông có vẻ ổn, theo cảm giác của Chris, tuy nhiên anh vẫn kiểm tra nhanh khắp xung quanh rồi mới ra hiệu cho Rebecca bước vào trong. Căn phòng này nhìn giống y như một quán bar piano, một chiếc piano cánh loại nhỏ nằm chễm trệ trên sàn nhà, còn phía bên kia là một cái quầy giải khát gắn liền với bức tường, cuối cùng là một hàng ghế cao đặt dọc theo chiều dài của cái quầy. Không biết là ánh sáng mờ ảo hay gam màu trầm của căn phòng đã tạo cho nó một bầu không khí tĩnh lặng và êm đềm. Nhưng cho dù là lý do nào đi nữa thì Chris vẫn phải thừa nhận rằng đây là căn phòng đẹp nhất anh từng bước vào cho tới giờ.

“Và có khi cũng là một chỗ tốt cho Rebecca ở lại trong khi mình đi tìm mấy người kia.”

Rebecca ngồi lên mép chiếc ghế dài phủ đầy bụi trước chiếc đàn piano màu đen trong khi Chris thì kiểm tra khắp xung quanh phòng một cách kỹ càng hơn. Có mấy cái cây được trồng trong chậu, một chiếc bàn con, và một hốc tường nhỏ thụt vào trong gần nơi đặt cây đàn piano, trong nó là mấy cái kệ sách làm bằng gỗ. Cánh cửa duy nhất để có thể vào được phòng này chính là cánh cửa mà bọn họ vừa đi qua. Đúng là một địa đỉểm lý tưởng cho Rebecca ẩn náu.

Anh cất súng vào bao và tiến lại gần chiếc đàn piano nơi cô đang ngồi, cố gắng chọn lời lẽ phù hợp; anh không muốn làm cô hoảng sợ với đề xuất sẽ để cô ở lại phía sau. Cô nhìn anh cười ngượng nghịu, trông cô lúc này thậm chí còn trẻ hơn cả tuổi thật của mình, mái tóc cô cắt ngang, màu hung đỏ với những vạt tóc chĩa nhọn tạo thêm cảm giác rằng cô vẫn chỉ là một cô bé con...

“... một cô bé con học hết đại học trong quãng thời gian còn ngắn hơn cả thời gian mày cần để học lấy bằng lái máy bay cơ đấy; đừng có mà coi thường cô ấy, cô ấy chắc chắn là còn thông minh hơn mày nhiều.”

Chris ngầm thở dài trong bụng và cười đáp lại cô:

"Em cảm thấy thế nào với việc ở lại chỗ này trong khi anh kiểm tra xung quanh ngôi nhà một lúc?"

Nụ cười của cô hơi héo đi một chút, nhưng cô nhìn anh một cách công bằng.

"Em hiểu ý anh rồi”, cô nói, “Em không có súng, nên nếu chẳng may anh có gặp rắc rối thì em chỉ làm vướng chân vướng tay anh thôi chứ gì.”

Cô cười to hơn, nói tiếp: "Có điều là nếu anh bị định lý toán học nào "đá đít" thì đừng có mà chạy đến khóc lóc với em đấy."

Chris bật cười với câu nói đùa của cô và với cả sự lo ngại không cần thiết của mình; cô quả là người không thể coi thường. Anh bước tới cánh cửa, đặt tay lên tay nắm cửa.

"Anh sẽ quay lại sớm nhất có thể", anh nói, "Em hãy khóa ngay cửa lại sau khi anh rời khỏi đây, và nhớ là đừng có đi đâu linh tinh đấy nhé."

Rebecca gật đầu, và anh bước trở lại hành lang, đóng cửa lại sau lưng một cách kiên quyết. Anh đợi cho đến khi nghe thấy tiếng then cửa rồi mới rút khẩu Baretta ra, nụ cười trên môi anh nhạt dần khi anh bắt đầu nhanh chóng bước về phía cuối hành lang.

Càng đến gần con quái vật hôi thối, cái mùi bốc lên càng khó chịu. Anh hớp một ngụm không khí trước khi anh lại gần cái xác, rồi anh bước qua nó để xem xem hành lang còn kéo dài đến đâu rồi mới bắt đầu kiểm tra những vết đạn bắn trên cái xác, bỗng anh khựng lại, lạnh người khi nhìn thấy một cái xác khác cụt đầu và đầy máu đang nằm trong hốc tường. Chris kiểm tra khuôn mặt mềm nhũn, vô hồn nằm cách đó một bước chân, và anh nhận ra đó là Kenneth Sullivan. Đột nhiên anh cảm thấy lòng mình sôi sục kèm theo một cơn giận giữ chỉ chực trào dâng khi anh nhìn thấy cái xác của người thành viên đội Bravo.

Thật là sai lầm, tất cả đều sai lầm. Joseph, Ken, có lẽ cả Billy - bao nhiêu người đã phải chết? Rồi sẽ còn thêm bao nhiêu người nữa phải chịu đựng, đau khổ chỉ vì một vụ tai nạn ngu xuẩn?

Cuối cùng anh quay lưng lại, sải chân một cách quyết tâm tới cánh cửa dẫn trở lại phòng ăn. Anh sẽ bắt đầu từ đại sảnh chính, kiểm tra tất cả các lối mà đội S.T.A.R.S. có thể đã đi qua và giết hết tất cả lũ quái vật trên đường anh đi tìm họ.

Các đồng đội của anh sẽ không phải chết một cách vô ích; Chris sẽ làm bất cứ chuyện gì để chứng minh điều đó, bất kể đó có là công việc cuối cùng anh làm trên cuộc đời này.

Rebecca khóa cửa lại sau khi Chris đã rời khỏi căn phòng, lòng thầm chúc cho anh được may mắn rồi bước trở lại chỗ để chiếc piano đầy bụi bặm và ngồi xuống. Cô biết rằng anh luôn cảm thấy phải có trách nhiệm với cô, và cô lại tự hỏi tại sao mình lại ngốc nghếch đến thế, làm rơi cả súng của mình.

Nếu mình có súng thì ít nhất anh ấy cũng không phải lo lắng cho mình đến thế. Tuy là mình không có kinh nghiệm chiến đấu nhưng dù sao thì mình cũng đã trải qua khóa huấn luyện cơ bản như tất cả mọi người.

Cô bâng quơ lướt ngón tay qua những phím đàn đầy bụi bặm, lòng cảm thấy mình thật vô dụng. Lẽ ra cô nên mang ít tài liệu trong nhà kho theo bên mình. Cô không chắc là còn điều gì khác cô có thể biết được qua những tài liệu ấy, nhưng ít nhất thì cô còn có cái để mà đọc. Vì cô vốn là người không giỏi ngồi yên một chỗ, và chẳng có việc gì làm sẽ chỉ khiến cho tâm trạng của cô thêm thê thảm mà thôi.

“Mày có thể chơi đàn”, tâm trí cô đề nghị một cách sáng suốt, Rebecca mỉm cười, mắt cô nhìn xuống các phím đàn. Không đâu, xin cám ơn. Lúc cô còn bé, cô đã phải chịu đựng ròng rã suốt bốn năm trời luyện tập các bản nhạc cho đến khi mẹ cô cuối cùng cũng cho phép cô được nghỉ.

Cô đứng dậy, nhìn xung quanh căn phòng vắng lặng xem có gì đó khác có thể khiến cô bận rộn. Cô bước tới quầy bar và nhòm qua nó, nhưng cô chỉ thấy mấy cái kệ đựng ly và một chồng khăn ăn, tất cả đều bao phủ một lớp bụi mỏng. Ngoài ra còn có vài chai rượu, hầu hết đều trống rỗng, cùng vài chai khác chưa mở trông có vẻ đắt tiền trên mặt bàn phía sau quầy bar.

Rebecca gạt bỏ ngay cái suy nghĩ khi nó vừa mới nhen nhóm trong đầu cô. Cô vốn không phải là đứa nghiện rượu, và bây giờ lại càng không phải lúc thích hợp để uống rượu. Thở dài, cô quay người nhìn tổng quát tất cả những chỗ còn lại trong căn phòng.

Ngoài cái đàn piano ra thì chẳng còn gì nhiều để mà xem. Chỉ có độc một bức tranh chân dung nhỏ vẽ hình người phụ nữ dịu dàng trong khung tranh màu đen treo trên bức tường phía bên tay trái cô; một cái cây rậm lá, mà cô thường thấy trong các nhà hàng lịch sự, đang héo dần được đặt trên sàn cạnh chiếc đàn piano; một chiếc bàn đặt sát tường với một cốc rượu martini nằm đổ trên mặt bàn. Sau khi xem xét những thứ còn lại trong căn phòng thì chiếc piano với cô bắt đầu trông có vẻ hấp dẫn.

Cô bước qua chiếc đàn piano cánh nhỏ và thử kiểm tra cái hốc tường phía bên phải cô. Trong hốc chỉ có hai cái kệ sách trống rỗng, ngoài ra chẳng có gì thú vị.

Cô cau mày, bước tới gần hơn nữa về phía cái kệ sách. Cái kệ sách nhỏ hơn phía bên ngoài thì đúng là trống rỗng rồi nhưng cái kệ đằng sau nó thì không.

Cô đặt tay lên hai mép của cái kệ sách bên ngoài và bắt đầu đẩy, cố dịch nó về phía trước. Cái kệ chẳng nặng nề gì nên cô có thể dễ dàng đẩy nó tạo thành một vết trượt trên mặt sàn gỗ đầy bụi.

Rebecca xem xét cái kệ sách bí mật, rồi thất vọng. Một chiếc kèn bị mẻ, một cái đĩa thủy tinh đựng hoa quả đầy bụi, mấy cái chặn giấy trong suốt có chứa nước và vài bản nhạc dành cho đàn piano được kẹp lại với nhau bằng một cái kẹp giấy. Cô nhìn xuống tiêu đề bản nhạc, và đột nhiên cô cảm thấy lòng mình ấm lại khi cô bồi hồi nhớ về quãng thời gian cô vẫn còn chơi nhạc; đó là bản Xô - nát Ánh trăng, một trong những bản nhạc yêu thích của cô.

Cô cầm bản nhạc đã ố vàng trên tay, nhớ tới những giờ phút cô cố gắng học cách chơi bản nhạc này khi cô mới mười hay mười một tuổi gì đấy. Trên thực tế, chính bản nhạc này đã giúp cô nhận ra rằng cô không thể nào trở thành một nghệ sĩ dương cầm thực thụ được. Giai điệu của bản nhạc quá đẹp đẽ và quá tinh tế nên hầu như cô toàn chơi hỏng nó mỗi khi cô ngồi lên chiếc ghế dài.

Vẫn cầm tác phẩm trên tay, cô quay trở lại chỗ góc phòng và nhìn chiếc đàn piano một cách suy tư. Có vẻ như chẳng còn việc gì hay ho hơn để làm. Và ngoài ra, biết đâu ai đó trong đội của cô nghe thấy tiếng cô đánh đàn sẽ tới gõ cửa phòng và cố gắng tìm mọi cách để dừng thứ âm thanh khủng khiếp do cô tạo ra thì sao.

Cô bật cười, phủi bụi khỏi chiếc ghế dài rồi ngồi xuống, đặt bản nhạc lên kệ. Các ngón tay cô tìm đến vị trí chính xác trên bàn phím một cách hoàn toàn tự động khi cô bắt đầu đọc các nốt nhạc đầu tiên, cứ như thể như cô chưa từng nghỉ chơi đàn bao giờ vậy. Một cảm giác dễ chịu và thú vị bắt đầu thế chỗ cho nỗi khiếp sợ đang lan tỏa khắp ngôi biệt thự.

Cô bắt đầu đánh, một cách chậm rãi và không chút ngập ngừng. Những âm thanh u buồn vang lên phá vỡ không gian tĩnh mịch, Rebecca thấy lòng mình trở nên thanh thản, cảm giác căng thẳng và sợ hãi lúc trước đã hoàn toàn biến mất. Tuy cô vẫn chơi không được tốt lắm, nhịp độ vẫn bị hỏng như mọi khi - nhưng cô đã đánh đúng nốt, và giai điệu bản nhạc vẫn đủ sức khỏa lấp những khiếm khuyết về mặt kỹ thuật của cô.

Giá mà các phím đàn không cứng đến thế.

Có gì đó di chuyển phía sau lưng cô.

Rebecca nhảy dựng lên, hất tung cả cái ghế dài khi cô quay người lại, tìm kiếm một cách hoang dại kẻ sắp tấn công mình. Và cô nhìn thấy một thứ khiến cô ngạc nhiên đến mức người cô cứng đơ ra mất mấy giây, không hiểu nổi ý thức đang nói gì với mình.

Bức tường đang di chuyển.

Ngay cả khi nốt nhạc cuối cùng vẫn còn treo lơ lửng trong không gian mát mẻ của căn phòng thì một ô tường cách mặt đất 3 feet trên bức tường trống không phía bên tay phải cô bắt đầu ầm ầm trượt ngược lên trần nhà cho đến khi nhẹ nhàng dừng lại. Người cô không động đậy mất một lúc, cô đứng đợi điều gì đó kinh khủng sắp xảy ra với mình, nhưng sau vài giây đồng hồ trôi qua một cách lặng lẽ, không còn gì khác chuyển động; căn phòng trở lại yên tĩnh và hiền lành như trước.

Bản nhạc bị giấu đi. Các phím đàn thì cứng một cách kỳ lạ...

... có vẻ như chúng được nối với một cơ cấu máy móc nào đấy thì phải?

Khe hở chật hẹp để lộ ra một căn buồng bí mật có kích thước bằng một chiếc tủ quần áo cỡ lớn, có thể bước vào được, và cũng được chiếu sáng nhẹ nhàng như phần còn lại của căn phòng. Ngoại trừ bức tượng bán thân với cái bệ đặt phía sau thì căn buồng hoàn toàn trống rỗng.

Cô bước về phía cái khe cửa rồi dừng lại, suy nghĩ về một cái bẫy chết người với những chiếc phi tiêu tẩm thuốc độc bắt đầu quay cuồng trong đầu cô. Ngộ nhỡ cô bước vào và gây ra một thảm họa nào đó thì sao? Nhỡ cánh cửa đóng sập lại và nhốt cô luôn ở đó, còn Chris thì không quay lại đây nữa thì sao?

Thế còn việc mày là thành viên duy nhất của đội S.T.A.R.S. chẳng làm được cái tích sự quái gì trong toàn bộ chiến dịch lần này thì sao đây? Thể hiện tí nghị lực xem nào!

Rebecca cố gắng cứng rắn hơn một chút trước hậu quả có thể xảy ra rồi bước vào bên trong, nhìn xung quanh một cách thận trọng. Cô không thấy có hiểm họa nào xuất hiện ở đây cả. Bức tường vữa thô mang màu cà phê sữa, có gắn gỗ trang trí. Căn buồng nhỏ này được chiếu sáng bởi cái bể kính bé tí tẹo ở phía bên phải cô mà bên trong là một nhúm cây héo rũ được trồng đằng sau lớp kính bẩn thỉu.

Cô bước gần hơn tới cái bệ ở phía sau và nhận thấy bức tượng bán thân bằng đá đặt trên bệ chính là tượng của Beethoven; cô nhận ra vẻ nghiêm trang cùng hàng lông mày rậm rạp của nhà soạn nhạc đã viết nên bản sonát Ánh trăng bất hủ. Bản thân trên cái bệ cũng có một cái huy hiệu bằng vàng, dầy cộp trông giống như một cái khiên hay bao bảo vệ tay, có kích thước to bằng cái đĩa ăn.

Rebecca cúi xuống cạnh cái cột chống đơn giản, mắt cô nhìn chăm chăm cái huy hiệu. Trông nó có vẻ cứng và dày, các họa tiết được trang trí một cách quý phái với một khối vàng đẹp đẽ ngang đỉnh. Trông cái huy hiệu có vẻ gì rất quen; hình như cô đã từng trông thấy những họa tiết tương tự ở đâu đó trong tòa nhà này.

Trong phòng ăn, phía trên lò sưởi!

“Đúng rồi, đúng là nó, chỉ có điều là cái huy hiệu đặt trên lớp khăn trùm lò sưởi được làm bằng gỗ”, cô có thể khẳng định chắc chắn. Cô đã để ý thấy nó trong khi Chris đang nhìn đống mảnh vỡ của bức tượng thạch cao.

Tò mò, cô chạm tay vào cái huy hiệu, lần theo những hoa văn chạy ngang qua mặt trước của nó, sau đó cô dùng hai tay nắm lấy hai cái gờ hơi nhô cao một chút trên tấm huy hiệu rồi nhấc nó lên. Cái huy hiệu nặng nề được nhấc lên một cách dễ dàng, cứ như thể đây không phải là chỗ thuộc về nó và đằng sau lưng cô, cánh cửa bí mật ầm ầm trượt xuống trở lại, nhốt cô ở lại trong phòng.

Không hề nao núng, cô quay lại và đặt chiếc huy hiệu trở lại chỗ cũ - mặt tường lại một lần nữa được nhấc lên, trượt nhẹ nhàng trên những rãnh bí mật. Thở phào nhẹ nhõm, cô nhìn xuống cái huy hiệu nặng nề bằng vàng và bắt đầu suy nghĩ.

Ai đó đã sắp đặt tất cả chuyện này theo thứ tự để giúp cho miếng huy hiệu được giữ kín, như thế hẳn nó phải quan trọng lắm - nhưng mà nếu thế thì tại sao cô lại nhấc nó ra khỏi chỗ để dễ dàng như thế được? Cái huy hiệu ở trên nóc lò sưởi không biết có mở ra cái hành lang bí mật nào không?

Hay là... cái huy hiệu ở trên lò sưởi có cùng kích cỡ với cái này? Tuy cô không chắc lắm nhưng cô nghĩ điều đó đúng và linh tính của cô cũng nói với cô rằng cô đã đúng. Nếu cô đổi chỗ hai cái với nhau, dùng cái huy hiệu bằng gỗ để giữ cho cánh cửa mở rồi đặt cái huy hiệu bằng vàng lên trên lò sưởi thì...

Rebecca quay trở lại căn phòng chính, nhoẻn miệng cười. Chris đã dặn cô phải ở nguyên tại chỗ, nhưng cô sẽ không đi lâu quá, chừng một hai phút thôi - biết đâu khi anh quay lại thì cô lại có gì đấy để cho anh xem thì sao, và rất có thể đây sẽ là một trong những đóng góp thật sự giúp làm sáng tỏ những điều bí mật đang ẩn giấu bên trong tòa biệt thự.

Và cũng là một minh chứng rõ ràng rằng cô không hề vô dụng chút nào.