Tải app Android hoặc iOS để đọc truyện nhanh hơn

Hỗ trợ: Fanpage TruyenHD

Sherlock Holmes Toàn Tập

Chương 109: Vụ Án Ngón Tay Cái Của Viên Kĩ Sư

« Chương TrướcChương Tiếp »
Những năm tháng hai chúng tôi cộng tác với nhau rất thân thiết ấy, trong số những vụ án mà Sherlock Holmes phải giải quyết, thì chỉ đúng hai trường hợp tôi giới thiệu với khách hàng về tài năng lỗi lạc của anh ấy. Thứ nhất là vụ ngón tay cái của Hatherley, sau nữa là vụ đại tá Warburton phát điên. Trong hai vụ án này, đối với những người có óc suy luận độc đáo và nhạy bén, thì vụ sau đáng để nghiên cứu hơn. Thế nhưng vụ trước mở đầu vô cùng kỳ lạ, các tình tiết sự việc đầy kịch tính, có lẽ bởi thế nó đáng được ghi chép lại hơn, dù rằng trong vụ này anh bạn tôi ít phải sử dụng năng lực suy luận siêu việt thường vẫn áp dụng để phá các vụ án trước đó. Tôi tin là vụ án này đã được đăng tải trên báo chí không chỉ một lần. Thế nhưng cũng giống như tất cả các bài phóng sự dạng này, người viết chỉ dùng có nửa trang báo để đăng câu chuyện một cách sơ lược, đại khái thì chắc chắn không thể khiến người ta chú ý được. Thế nên, thà cứ để cho sự thể từ từ phơi bày ra trước mắt bạn, cùng với những phát hiện mới sẽ giúp mọi người hiểu thêm về chân tướng của toàn bộ sự việc. Như vậy, bí ẩn của vụ án cũng sẽ được giải mã từng bước một.

Cảnh tượng lúc ấy để lại trong tôi một ấn tượng vô cùng sâu đậm, dù thời gian trôi đi, hai năm trời đã qua, nhưng tôi gần như vẫn còn nhớ rõ mồn một từng sự việc.

Bây giờ, tôi sẽ đi vào phần chính của câu chuyện, nó xảy ra vào mùa hè năm 1889, không lâu sau khi tôi kết hôn. Lúc ấy tôi trở lại hành nghề y, bỏ Holmes một mình trong căn nhà ở phố Baker, tuy tôi vẫn thường xuyên đến thăm anh ấy, thậm chí có lúc còn khuyên anh ấy hãy từ bỏ thói quen sống tự do phóng túng và tới thăm chúng tôi. Công việc của tôi ngày càng tấn tới. Cũng may là chúng tôi chuyển đến chỗ ở mới cách nhà ga Paddington không bao xa, đã có một số nhân viên đường sắt và người dân vùng lân cận là những bệnh nhân quen cũ rồi. Vì tôi đã chữa cho một người trong số họ khỏi căn bệnh nan y từng hành hạ ông ta bao lâu nay, nên ông ta đã không ngần ngại tuyên truyền về khả năng khám chữa bệnh của tôi ở khắp nơi, cố gắng đưa những người ông ta có thể thuyết phục được đến chỗ tôi chữa bệnh.

Một buổi sáng, vào lúc gần 7 giờ, tôi bị đánh thức bởi tiếng gõ cửa của cô giúp việc, bảo rằng có hai người từ Paddington đến, đang ở trong phòng chờ. Tôi vội vàng mặc quần áo vào rồi đi ngay xuống nhà. Vì kinh nghiệm cho tôi biết, những người mà theo đường sắt tới đây thì đa số bệnh tình đều không hề nhẹ, nên tôi vội vàng mặc quần áo xuống ngay. Ông bạn tôi - người cảnh sát đường sắt mà tôi đã kể - bước từ phòng khám ra, rồi tiện tay đóng cửa lại.

- Tôi dẫn anh ta tới đây rồi. - ông ấy trỏ ngón tay cái ngược về đằng sau, thì thầm - Bây giờ anh ta khá hơn nhiều rồi.

- Gì vậy? - Tôi hỏi, vì cử chỉ của ông ta làm tôi có cảm giác như thể ông ta đang nhốt một con quái vật trong phòng tôi vậy.

- Là một bệnh nhân mới. - Ông ta lại thì thầm - Tôi cho rằng tốt nhất là tôi nên đích thân dìu anh ta đến đây, không thì anh ta ngã mất. Bây giờ tôi phải đi rồi, thưa bác sĩ. Cũng giống như ông, tôi còn phải trực ban. Bây giờ anh ta đang bình yên trong đó rồi.

Nói xong, thậm chí còn không để cho tôi kịp cảm ơn, người “dẫn mối” trung thành ấy đã đi ngay.

Tôi đi vào phòng khám, thấy có một người đàn ông đang ngồi cạnh bàn. Anh ta khá giản dị, mặc bộ comlê vải màu ghi xám, một chiếc mũ mềm đặt trên mấy cuốn sách của tôi. Một tay anh ta quấn trong chiếc khăn với những vết máu loang lổ. Anh ta rất trẻ, không quá hai lăm tuổi, dung mạo tuấn tú. Nhưng nhìn sắc mặt trắng bệch giống như xác chết kia, tôi có một cảm tưởng là dường như anh ta đang phải dồn hết ý chí và sức lực của mình để chống chọi với nỗi đau đớn vừa mới đây bởi một chấn động vô cùng dữ dội.

- Thành thật xin lỗi bác sĩ vì bắt ông phải dậy sớm thế này. - Anh ta nói - Trong đêm, tôi đã gặp phải một tai nạn vô cùng nghiêm trọng. Sáng sớm nay tôi đi tàu hỏa đến đây. Lúc ở ga Paddington, hỏi xem tìm đâu ra bác sĩ thì một người rất đỗi nhiệt tình đã chỉ dẫn tôi tới đây. Tôi đã đưa tấm danh thϊếp cho chị giúp việc rồi, tôi thấy chị ấy đặt nó lên bàn bên cạnh đấy.

Tôi cầm tấm danh thϊếp lên, đọc lướt nhanh: “Victor Hatherley, kỹ sư thủy lực, phòng 16A lầu 3, phố Victoria”. Đó là họ tên, nghề nghiệp và địa chỉ của vị khách.

- Xin lỗi, để anh phải chờ đợi lâu quá. - Vừa nói, tôi vừa ngồi xuống chiếc ghế tựa - Tôi thấy anh vẫn tỉnh táo lắm, dẫu đã ngồi trên tàu suốt cả đêm. Tôi hiểu đi tàu đêm luôn là một việc rất đơn điệu, buồn tẻ mà.

- À, đêm nay thì không thể nói là đơn điệu buồn tẻ được. - Nói rồi anh ta bật cười sặc sụa, tiếng cười vừa cao trong vừa vang. Anh ta ngả tựa vào ghế, cười rung cả người mãi không thôi. Tiếng cười này, theo hiểu biết y học của bản thân, tôi bỗng cảm nhận được điều rất dữ.

- Đừng cười nữa! - Tôi quát - Ngồi yên xem nào. - Rồi tôi nhấc bình, rót cho anh ta một cốc nước.

Thế nhưng chẳng có nghĩa lý gì mấy, bởi sau một trận cười không thể kìm nén nổi, khi cơn khủng hoảng qua đi, anh ta dần bình thường trở lại. Lúc này đây, anh ta như chợt tỉnh, sức cùng lực kiệt, mặt trắng bệch.

- Xấu hổ quá! Tôi đã làm trò vớ vẩn rồi. - Anh ta vừa thở hổn hển vừa cố than vãn.

- Không hề gì! Uống chút đi này! - Tôi pha ít rượu brandy vào cốc nước rồi đưa qua. Hai gò má trắng bệch của anh ta bắt đầu hồng hào trở lại.

- Tốt hơn nhiều rồi. - Anh ta nói - Bây giờ xin bác sĩ bỏ công xem giúp tôi cái ngón tay cái, à không, xem giúp tôi cái chỗ trước đây là ngón tay cái mới đúng!

Anh ta tháo bỏ khăn ra, giơ bàn tay lên. Cảnh tượng này đến người có ý chí sắt thép cũng không thể không khϊếp sợ: Bốn ngón tay trồi lên bên một miếng thịt mềm nhũn, lầy nhầy, máu đỏ rùng rợn; đấy vốn là vị trí của ngón tay cái. Nó đã bị chặt đứt hoặc là bị xé ra khỏi bàn tay rồi.

- Chúa ơi! - Tôi hét lên - Vết thương quá trầm trọng! Chắc đã mất nhiều máu lắm.

- Vâng, quả đúng như vậy. Sau khi bị thương, tôi ngất đi, và tôi nghĩ là đã bất tỉnh khá lâu. Khi tỉnh dậy, thấy máu vẫn còn tiếp tục chảy, tôi liền lấy khăn tay cố quấn thật chặt lại thế này.

- Băng bó khá đấy! Đáng lẽ anh phải làm bác sĩ ngoại khoa mới đúng.

- Thì đây là một vấn đề về thủy lực học mà, thuộc phạm vi kiến thức chuyên môn của tôi.

- Vết thương này phải do một dụng cụ rất sắc và nặng gây nên. - Tôi vừa kiểm tra vết thương vừa nói.

- Giống như một con dao chặt thịt. - Anh ta đồng tình.

- Toi nghĩ, đay la mot tai nan ngoai y muon, phai khong?

- Chắc chắn là không phải như vậy.

- Sao? Có kẻ đã rắp tâm ra tay tàn bạo với anh ư?

- Hừm… Quả là cực kỳ tàn bạo !

- Ôi! Thật ghê sợ !

Tôi làm mềm, rửa sạch và lau khô vết thương, bôi thuốc, rồi cuối cùng lấy băng gạc khử trùng băng lại. Anh ta nằm yên đó, dù rất đau đớn nhưng không hề động cựa, chỉ chốc chốc lại cắn chặt hai hàm răng vào với nhau, làm chúng kêu lên ken két.

- Giờ anh cảm thấy thế nào? - Tôi hỏi khi vừa xong xuôi.

- Ôi tuyệt! Rượu mạnh và băng gạc của ông khiến tôi cảm thấy mình như biến thành một người hoàn toàn khác rồi. Sức khỏe tôi quả đã rất yếu, nhưng mục đích buộc tôi phải vượt qua, vì tôi vẫn còn rất nhiều việc phải làm.

- Tốt nhất anh đừng nhắc tới chuyện ấy. Chớ có hành hạ thần kinh của anh thêm nữa!

- Ồ không! Không phải lúc này. Tôi vẫn còn phải báo chuyện này cho cảnh sát. Nhưng không giấu gì ông, nếu như tôi không có vết thương này làm bằng chứng thì hẳn sẽ là chuyện lạ đời nếu họ lại đi tin tôi đấy. Vì rằng đây là một chuyện hết sức bất thường, mà tôi lại không có bất cứ chứng cứ gì đủ để chứng minh là tôi nói thật. Hơn nữa, dù họ có tin tôi, manh mối mà tôi có thể cung cấp cũng rất mơ hồ. Họ có giành lại công bằng cho tôi không cũng còn là một vấn đề…

- A ha! - Tôi kêu lên - Nếu đó là vấn đề hóc búa mà anh thực sự muốn giải quyết thì tôi đây rất sẵn lòng giới thiệu anh với người bạn tôi là Sherlock Holmes. Trước khi anh tìm tới cảnh sát, cứ đi nhờ anh ấy xem sao đã!

- Thế hả! Tôi đã từng nghe nói tới ông ấy. - Vị khách của tôi đồng ý ngay - Tôi sẽ rất vui mừng nếu ông ấy nhận vụ án này, đồng thời tôi cũng phải báo cảnh sát. Ông có thể giới thiệu tôi với ông ấy được chứ?

- Đâu chỉ giới thiệu, tôi sẽ đích thân đưa anh đến gặp anh ấy.

- Vậy thì vô cùng biết hơn ông, thưa bác sĩ!

- Ta gọi một chiếc xe ngựa rồi cùng đi. Chúng ta vẫn còn kịp ăn sáng cùng anh ấy. Anh thấy thế có ổn không? - Vâng! Chừng nào còn chưa kể ra được câu chuyện này, tôi chưa thể yên lòng…

- Thế thì để người giúp việc của tôi đi gọi một chiếc xe ngựa. Tôi quay lại ngay đây…

Tôi vội vã đi lên lầu, giải thích ngắn gọn với vợ vài câu. Năm phút sau, tôi đã ăn vận gọn gàng và cùng với người bạn mới quen ấy ngồi xe ngựa thẳng hướng tới phố Baker.

Đúng như tôi dự liệu, Sherlock Holmes mặc đồ ngủ, vừa uể oải đi lại trong phòng, vừa đọc các mục tìm người, hiếu hỉ… đăng tải trên tờ “The Times”, miệng ngậm tẩu thuốc hút trước bữa sáng. Trong cái tẩu ấy chứa toàn sái thuốc của ngày hôm trước, những thứ đó tích đầy một góc lò sưởi. Anh đón tiếp chúng tôi bằng phong thái thân thiết mà điềm tĩnh rất riêng.

Rồi anh liền sai người đem giăm bông và trứng gà tới, mời chúng tôi cùng ăn rất thân mật. Ăn xong, anh bảo người bạn mới nằm trên ghế sôpha, kê một cái gối dưới đầu anh ta, và còn tự tay pha cho một cốc brandy.

- Rất dễ dàng nhận thấy là câu chuyện của anh không bình thường chút nào, anh Hatherley ạ! - Holmes nói - Vì Chúa, anh hãy nằm xuống đây, cứ tự nhiên, không cần phải ngại ngần gì. Nếu thấy đủ sức, hãy kể lại cho chúng tôi nghe tất cả những gì anh vừa trải qua! Khi nào anh chớm thấy mệt thì tạm nghỉ ngơi một chút, uống ngụm rượu để cho khỏe lại.

- Xin cám ơn! - Bệnh nhân của tôi đáp - Nhưng từ sau khi bác sĩ băng bó cho, thì tôi cảm thấy mình cứ như là một người khác rồi. Và tôi cho rằng bữa sáng này của ông gần như đã hoàn tất việc chữa trị. Tôi sẽ cố gắng để làm mất ít nhất thời gian quý báu của ông, cho nên tôi xin bắt đầu thuật lại câu chuyện kỳ lạ của mình ngay đây.

Holmes ngồi trong chiếc ghế bành, bộ dạng có vẻ uể oải, che đậy con mắt sắc lẹm và tâm trạng háo hức của anh. Tôi ngồi đối diện, im lặng lắng nghe câu chuyện kỳ lạ mà người khách đang thuật lại một cách rất chi tiết ấy.

- Thưa hai ông, - Anh ta kể bằng một giọng trầm ấm - tôi là một đứa trẻ mồ côi và vẫn còn độc thân, sống một mình trong nhà trọ ở London. Còn về nghề nghiệp, tôi đã gắng học tập để trở thành kỹ sư thủy lực. Và sau đó, trong bảy năm làm việc tại một công ty nổi tiếng tên là Venner và Matheson ở Greenwich, tôi đã thu lượm được khá nhiều kinh nghiệm rất hữu ích về chuyên môn.

“Hai năm trước, khi người cha đáng thương qua đời, tôi được thừa kế một chút vốn liếng. Thế là tôi quyết định tự mình tiến hành hoạt động kinh doanh; tôi thuê địa điểm mở văn phòng trên phố Victoria.

“Ai ai hẳn cũng nhận thấy rằng, khởi đầu kinh doanh độc lập thật khó khăn và chán nản. Điều này lại càng đúng đối với tôi. Trong suốt hai năm trời, tôi chỉ nhận được ba hợp đồng tư vấn và tiến hành một công việc chẳng đáng kể lắm, đó là toàn bộ những gì mà nghề nghiệp của tôi có thể đem lại. Tổng thu nhập của tôi là hai mươi bảy bảng và mười shiling. Ngày ngày từ 9 giờ sáng đến 4 giờ chiều, tôi đều ngồi đợi trong phòng làm việc nhỏ bé đến mòn mỏi cả chí khí, để rồi cuối cùng cũng nghiệm được ra rằng, đừng bao giờ đi thử sức theo cái kiểu này nữa.

“Thế nhưng, hôm qua, đúng lúc tôi định rời khỏi văn phòng thì trợ lý của tôi vào báo có một quý ông muốn gặp.

Ông ta tới muộn “do bận công việc kinh doanh” và đưa cho tôi một tấm danh thϊếp in tên “Đại tá Lysander Stark”.

“Người đàn ông này cao vừa phải nhưng quá gầy. Tôi nghĩ, mình chưa bao giờ gặp ai gầy như ông ta. Nơi khuôn mặt gầy nhọn ấy, mũi và cằm cứ nhô ra, da mỏng dính, sát hai gò má xương xẩu. Nhưng cái bộ mặt ốm o ấy của ông ta có lẽ là bẩm sinh chứ không phải vì bệnh tật gì, vì ánh mắt ông ta sáng quắc, đi lại hoạt bát, phong thái đầy quả quyết. Ông ta ăn mặc giản dị, gọn gàng. Tôi ước đoán ông ta khoảng bốn mươi tuổi.

- Anh Hatherley phải không? - Ông ta hỏi với âm điệu Đức pha - Anh Hatherley, có người giới thiệu với tôi rằng, anh không những tinh thông nghiệp vụ mà còn là người rất cẩn trọng và biết giữ bí mật.

“Tôi cúi đầu chào. Cũng giống như bao nhiêu người trẻ tuổi khác, tôi chán nản tự vấn mình: “Trời đất! Đào đâu ra toàn những đức tính tốt đẹp thế?”.

- Ồ, có lẽ tôi không nói cho anh nghe thì tốt hơn. Từ một nguồn tin, tôi còn biết, anh mồ côi và sống một mình tại London.

- Đúng vậy! - Tôi đáp - Nhưng xin ông thứ lỗi, chứ những điều này chẳng ảnh hưởng gì đến năng lực làm việc của tôi cả. Tôi được biết, ông đến đây là vì muốn thương lượng với tôi về chuyện công việc, đúng không?

- Vấn đề không hẳn là như vậy. Nhưng anh sẽ thấy là tôi không hề nói thừa bất cứ điều gì đâu. Chúng tôi quả thực có một việc cần nhờ anh giúp, nhưng nhất thiết phải giữ bí mật, tuyệt đối bí mật, anh hiểu không? Dĩ nhiên chúng tôi hy vọng là một người đàn ông sống độc thân sẽ giữ bí mật tốt hơn một anh chàng sống cùng gia đình, vợ con.

- Ông có thể tin tưởng hoàn toàn. - Tôi quả quyết nói - Nếu tôi hứa giữ bí mật, thì tôi chắc chắn sẽ thực hiện.

“Lúc tôi nói, mắt ông ta nhìn trừng trừng vào tôi. Gần như chưa bao giờ tôi thấy một ánh mắt soi mói và đầy đa nghi đến thế. Cuối cùng, ông ta lại hỏi lại:

- Vậy là anh hứa chứ?

- Phải, tôi hứa sẽ giữ bí mật. Trước, sau và trong toàn bộ quá trình làm việc, được chưa?

- Anh sẽ tuyệt đối giữ im lặng, tuyệt đối không nhắc gì tới chuyện này dù là nói hay viết?

- Tôi đã hứa với ông rồi còn gì!

- Vậy thì hay quá!



“Bỗng ông ta nhổm lên, phóng ra, mở cửa đánh “rầm” một cái. Lối đi bên ngoài không hề có một bóng người.

- Được rồi! - Ông ta bước vào - Tôi biết là các trợ lý đôi lúc hay tò mò với công việc của ông chủ. Bây giờ, chúng ta có thể nói chuyện một cách an toàn rồi.

“Ông ta kéo ghế sát đến chỗ tôi, rồi lại trân trân ngó bằng đôi mắt dò xét đầy hoài nghi.

“Hành động kỳ quặc của gã đàn ông gầy đét ấy khiến trong tôi nảy sinh một cảm giác phản cảm, gần như là sợ hãi. Thậm chí đến nỗi lo mất khách cũng không buộc tôi kiên nhẫn hơn được nữa:

- Xin hãy nói về chuyện của ông đi! - Tôi khó chịu giục - Thời gian của tôi rất quý giá. - Cầu Chúa tha thứ cho câu nói sau của tôi, nhưng thực tình những lời ấy cứ buột miệng bật ra thế.

- Làm việc một đêm được trả năm mươi ghinê với anh thì cũng coi là được chứ? - Ông ta hỏi ngược lại.

- Quả không hề ít.

- Tôi bảo là làm việc một đêm, nhưng thực tế có lẽ chỉ cần tới một giờ đồng hồ. Chẳng qua tôi chỉ muốn hỏi ý kiến anh về việc trật bánh răng của một cỗ máy thủy lực mà thôi. Chỉ cần anh xác định chỗ bị hỏng hóc, thì tự chúng tôi sẽ mau chóng sửa chữa nó. Anh thấy thế nào?

- Xem ra công việc rất nhẹ nhàng, mà thù lao khá hậu hĩnh.

- Chúng tôi muốn mời anh đến trên chuyến tàu cuối cùng đêm nay.

- Đến đâu cơ chứ?

- Đến Eyford thuộc Berkshire. Đó là vùng đất nhỏ tiếp giáp với Oxfordshire, cách Reading chưa tới bảy dặm. Có một chuyến tàu từ Paddington sẽ đưa anh tới đó vào khoảng 11 giờ 15 phút.

- Hay quá !

- Tôi sẽ ra ga đón anh.

- Vậy là còn phải đi xe thêm một quãng đường nữa à?

- Phải, khu vực của chúng tôi thuộc vùng nông thôn, cách ga Eyford khoảng bảy dặm.

- Như vậy là chúng ta khó mà đến nơi trước nửa đêm. Tôi đoán là không thể bắt kịp chuyến tàu quay về. Vậy thì tôi bắt buộc phải qua đêm ở đó rồi.

- Vâng, chúng tôi sẽ sắp xếp chỗ nghỉ đêm cho anh.

- Thế thì không tiện cho lắm. Chúng ta không thể đi vào lúc nào đó thuận tiện hơn sao?

- Chúng tôi đã sắp xếp anh đến vào buổi đêm là tốt nhất. Chính vì để bồi thường cho những bất tiện mà anh gặp phải, chúng tôi mới chi nhiều tiền ra như thế để trả cho một người trẻ tuổi chưa có tiếng tăm như anh chứ. Cái giá này đủ để thỉnh giáo một người xuất sắc nhất trong nghề của các anh đấy. Dĩ nhiên, nếu anh muốn từ chối cơ hội làm ăn này thì bây giờ vẫn còn kịp mà.

“Tôi nghĩ tới năm mươi ghinê và món tiền ấy sẽ có ích cho tôi như thế nào.

- Ồ, tôi không có ý đó. - Tôi nói - Tôi rất vui lòng làm theo nguyện vọng của ông. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn biết rõ hơn một chút, là ông muốn tôi làm cụ thể việc gì.

- Phải, chúng tôi đã đòi hỏi anh phải đảm bảo giữ được bí mật, hẳn điều này đã gợi tò mò cho anh. Chúng tôi không định buộc anh làm một việc mà lại không cho anh biết trước về nó. Tôi muốn biết chắc chắn, hoàn toàn không có người nào đang nghe trộm chứ?

- Chắc chắn là không một ai!

- Vậy thì chuyện là thế này, có lẽ anh cũng biết, loại đất sét có ở đó là một loại khoáng sản vô cùng quý hiếm. Ở Anh mới chỉ có hai nơi phát hiện ra.

- Tôi đã từng nghe nói đến.

- Cách đây không lâu, tôi mua một miếng đất rất nhỏ ở một nơi cách Reading không tới mười dặm. Tôi may mắn phát hiện ra rằng, trong mảnh đất ấy có mỏ đất sét rất quý. Thế nhưng sau khi thăm dò, tôi thấy mỏ này khá nhỏ, lại nối tiếp với hai cái mỏ to hơn nhiều ở hai mảnh đất liền kề thuộc sở hữu của những người hàng xóm. Nhưng những người lương thiện ấy lại không hề biết rằng có một loại khoáng sản quý như vàng đang ẩn giấu trong lòng đất của họ. Đương nhiên, phải nhanh tay mua lấy chúng trước khi họ phát hiện ra giá trị thật của mảnh đất thì mới được giá rẻ. Thật không may là tôi lại bị thiếu tiền. Vì thế, tôi tập hợp một vài người bạn và nói cho họ biết bí mật đó. Họ mách nước rằng chúng tôi nên thầm lặng và bí mật khai thác cái mỏ nhỏ bé ấy trước đã, và bằng cách này dần gom đủ tiền để mua lại đất của hàng xóm. Cho đến giờ, chúng tôi đã tiến hành theo cách đó được một thời gian rồi. Nhằm làm cho công việc được thuận lợi hơn, chúng tôi đã lắp đặt một cái máy nén thủy lực như tôi đã nói lúc đầu. Cái máy này bỗng dưng giở chứng, chúng tôi hy vọng sẽ có được sự chỉ dẫn chuyên môn từ phía anh. Chúng tôi bảo vệ bí mật ấy rất cẩn trọng. Nếu có ai đó biết được rằng chúng tôi mời kỹ sư thủy lực đến thì chỉ tổ gợi trí tò mò của mọi người. Lúc ấy, sự thật nhất định sẽ bị lộ, cơ hội giành được khu đất và kế hoạch của chúng tôi sẽ tan thành mây khói. Đấy chính là lý do vì sao tôi muốn anh hứa sẽ không tiết lộ cho ai biết là tối nay anh phải đến Eyford. Hy vọng là tôi đã nói rõ mọi chuyện, và anh thấy thoải mái chứ?

- Tôi hiểu, tôi hiểu. - Tôi nói - Chỉ có một điều duy nhất tôi không rõ lắm, đó là máy nén thủy lực thì có liên quan gì tới chuyện đào đất sét? Theo tôi biết, đào đất sét cũng giống như đào cát sỏi từ trong hầm lò mà.

- À, chúng tôi có cách riêng, chúng tôi ép đất thành những viên gạch mộc, để khi vận chuyển sẽ không bị lộ chúng là thứ gì. Nhưng đó chỉ là chi tiết vụn vặt thôi. Rồi tự anh sẽ biết toàn bộ bí mật, anh Hatherley ạ! Và anh thấy rồi đó, là tôi tin tưởng anh như thế nào. - Ông ta vừa đứng dậy vừa nói - Vậy thì 11 giờ 15 phút gặp nhau ở Eyford nhé.

- Chắc chắn tôi sẽ tới đó.

- Tuyệt đối không được cho ai biết! - Cuối cùng, ông ta lại nhìn trừng trừng vào tôi rất lâu bằng con mắt đầy nghi ngờ. Sau đó, ông ta chìa bàn tay lạnh và ướt ra bắt tay tôi, rồi vội vã ra khỏi phòng.

“Sau đó, như hai vị có thể hình dung được, khi tôi bình tĩnh lại, suy xét toàn diện về chuyện ấy, tôi cảm thấy vô cùng ngạc nhiên trước sự ủy thác mà họ dành cho tôi. Đương nhiên, một mặt tôi rất vui, vì nếu như tôi tự định giá cho nhiệm vụ của mình thì ắt sẽ thấp hơn mười lần so với số tiền thù lao hậu hĩnh mà họ trả. Hơn nữa, rất có thể nhiệm vụ lần này sẽ dẫn tới một số công việc sau này. Mặt khác, thái độ và diện mạo của vị khách đó đã tạo cho tôi một ấn tượng chẳng hề dễ chịu. Tôi cảm thấy sự giải thích của ông ta về thứ đất sét quý không đủ để chứng minh rằng tôi nhất thiết phải đi vào ban đêm, cũng không đủ thuyết phục vì sao ông ta lo lắng đến vậy, nơm nớp sợ tôi sẽ kể cho người khác biết. Dù thế nào đi nữa thì tôi cũng đã kìm nén mọi nỗi lo lắng sợ hãi, ăn một bữa tối thật no, rồi bắt xe đi Paddington và bắt đầu thực thi nhiệm vụ được giao nghiêm ngặt, giữ mồm giữ miệng.

“Ở Reading, tôi không những phải đổi xe mà còn phải đổi trạm. Thế nhưng tôi cũng vừa kịp bắt chuyến tàu cuối cùng tới Eyford. Sau 11 giờ, tàu đã tới cái trạm xe lửa nhỏ bé và ảm đạm ấy. Tôi là hành khách duy nhất xuống tàu. Ngoài một công nhân đường sắt cầm cái l*иg đèn với dáng điệu mệt mỏi ra, thì đường ke vắng ngắt không một bóng người. Tuy nhiên, khi ra khỏi cửa soát vé, tôi đã thấy người khách sáng nay đang đứng chờ tôi ở một chỗ tối tăm không có ánh đèn. Chẳng nói chẳng rằng, ông ta tóm tay tôi, kéo về phía chiếc xe ngựa với cánh cửa đã mở sẵn. Ông ta kéo kín cửa sổ hai bên, đập vào thành xe, con ngựa kéo xe lao vυ"t đi…”

- Chỉ có một con ngựa thôi à? - Đột nhiên Holmes chen ngang câu chuyện.

- Đúng, chỉ có một con thôi.

- Anh có quan sát màu lông của nó không?

- Có, qua ánh sáng khi bước vào khoang xe, tôi thấy đó là một con ngựa màu hạt dẻ.

- Con ngựa trông mỏi mệt hay khỏe khoắn?

- Ồ, nó rất khỏe mạnh với bộ lông bóng mượt.

- Cám ơn! Xin lỗi đã ngắt lời khi câu chuyện đang rất thú vị. Mời anh kể tiếp!

- Thế là kể từ lúc khởi hành, xe ngựa đã đi ít nhất là một tiếng đồng hồ. Đại tá Lysander Stark nói là chỉ có bảy dặm, nhưng tôi cảm thấy với tốc độ xe chạy và khoảng thời gian thì chắc chắn phải gần mười hai dặm. Trong suốt cuộc hành trình, ông ta chỉ ngồi im lặng bên cạnh tôi. Một đôi lần tôi liếc thấy ông ta đang nhìn chằm chằm vào tôi. Có vẻ như đường nông thôn ở đó không được tốt lắm, vì xe chúng tôi lắc lư nghiêng ngả và xóc khủng khϊếp. Tôi cố hết sức nhìn ra ngoài, muốn xem chúng tôi đã đến đâu rồi. Nhưng cửa sổ kính kín hơi sương nên ngoài những ánh đèn mờ mờ ảo ảo khi xe lao qua, thì chẳng nhìn thấy gì cả. Thỉnh thoảng tôi nói vài câu để phá vỡ sự buồn tẻ của cuộc hành trình, nhưng đại tá chỉ đáp nhát gừng. Vì thế cũng chẳng nói được gì mấy. Cuối cùng, hết những đoạn đường gập ghềnh, xe ngựa đã đi sang đoạn đường lát đá êm và sáng sủa rồi dừng lại. Đại tá Lysander nhảy xuống xe, tôi theo sau, ông ta đột nhiên kéo tôi chui ngay vào một cái cổng có mái với cánh cửa đang mở. Dường như chúng tôi vừa bước ra khỏi xe là vào ngay đại sảnh. Vừa bước qua ngưỡng cửa thì cánh cửa đã đóng rầm một tiếng sau lưng tôi. Tôi láng máng nghe thấy tiếng bánh xe lăn khi cỗ xe rời đi.

“Trong nhà tối om, đại tá mò mẫm tìm diêm và cằn nhằn đầy bực bội. Lúc này, cánh cửa đầu kia hành lang bỗng nhiên mở ra. Một luồng ánh sáng dài màu vàng chiếu về phía chúng tôi, ánh đèn càng lúc càng sáng. Rồi chợt xuất hiện một người phụ nữ, tay cầm một cái đèn, giơ lên trước mặt. Cô ta vươn người về phía trước, nhìn chúng tôi chằm chằm. Tôi thấy rõ, cô ta rất xinh đẹp. Ánh đèn chiếu vào chiếc áo liền váy màu đen của cô, do ánh sáng phản xạ lại, tôi thấy đó là loại vải sang trọng mà các quý bà quý cô giàu có vẫn thường dùng. Cô ta nói vài từ tiếng nước ngoài, nghe có vẻ như đang hỏi gì đó. Khi người cùng đi với tôi đáp lại nhát gừng và gắt gỏng, cô ấy rất kinh ngạc, suýt đánh rơi cái đèn trong tay. Đại tá Stark bước đến bên cô, thì thầm gì đó vào tai cô, sau đó đẩy cô trở lại căn phòng mà cô vừa đi ra. Rồi ông ta cầm đèn bước về phía tôi.

- Có lẽ anh phải đợi trong căn phòng này vài phút nữa. - Ông ta nói và mở một cánh cửa khác. Đây là một phòng chứa đồ nhỏ và yên tĩnh, giữa phòng có một cái bàn tròn, trên bày lộn xộn vài quyển sách tiếng Đức. “Đại tá Stark đặt cái đèn lên tít trên nóc giá sách.

- Tôi sẽ không bắt anh chờ lâu đâu. - Nói xong, ông ta biến mất trong bóng tối.

“Tôi nhìn qua mấy quyển sách trên bàn, mặc dù không hiểu nhiều tiếng Đức, tôi cũng có thể nhận ra được hai quyển trong số đó là sách khoa học, những cuốn còn lại là thơ. Rồi nhìn phía cửa sổ, tôi hy vọng có thể thấy đôi chút cảnh tượng nông thôn. Nhưng cái cửa chớp bằng gỗ sồi rất chắc đã chặn kín cửa sổ lại. Trong phòng im lặng lạ thường. Một cái đồng hồ ở đâu đó trong hành lang đang kêu tích tắc, tích tắc. Ngoài nó ra, mọi thứ đều im lặng như ở dưới mồ. Một cảm giác bất an mơ hồ dần dần xâm chiếm tôi. Những người Đức này là ai? Họ chọn vùng nông thôn hẻo lánh này để cư trú là muốn giở trò gì? Đây là đâu? Tôi chỉ biết chỗ này cách Eyford khoảng mười dặm, nhưng không phân biệt nổi là về phía nào cả, đông tây hay nam bắc… Xét về vị trí địa lý thì có lẽ Reading cũng có những thị trấn khác nằm trong phạm vi bán kính ấy, do đó chỗ này chắc cũng không hẻo lánh lắm. Thế nhưng ở đây thật là vắng lặng, có thể khẳng định chắc chắn là chúng tôi đang ở vùng thôn quê. Tôi đi đi lại lại trong căn phòng, khe khẽ ngân nga một khúc nhạc để lấy dũng khí, và cảm nhận là tôi đến đây hoàn toàn vì năm mươi ghinê tiền thù lao kia.

“Đột nhiên cửa phòng bật mở ra, trước đó tôi không hề nghe thấy tiếng động gì. Cô gái lúc nãy đứng ở cửa, đằng sau tối om. Ánh đèn vàng mờ mờ của phòng tôi chiếu lên khuôn mặt xinh đẹp và đầy khẩn thiết của cô ấy. Chỉ thoáng nhìn một cái, tôi đã thấy ngay sự hoang mang lo sợ của cô, cảnh tượng ấy khiến tôi lạnh toát cả người. Cô giơ một ngón tay lên ra hiệu cho tôi không được nói gì, rồi mau chóng nói với tôi vài câu tiếng Anh lơ lớ, mắt liếc nhìn cuống quýt về bóng tối phía sau, giống như mắt của con ngựa non vừa bị nạn.

- Anh hãy chạy đi. Chẳng có gì tốt đẹp cho anh làm đâu. - Cô ấy nói. Xem ra cô ấy đang cố trấn tĩnh.

- Nhưng thưa cô, tôi vẫn còn chưa làm việc cần làm. Ngó xem cái máy xong, tôi mới có thể rời khỏi đây được.

- Không đáng để anh phải chờ đợi đâu. - Cô ấy hốt hoảng nói tiếp - Anh có thể đi ra từ cửa này, sẽ không có người canh gác.

“Cô thấy tôi mỉm cười lắc đầu thì bỗng nhiên trút bỏ hết mọi sự dè dặt, bước lên mấy bước, hai tay đan chặt vào nhau.

- Vì Chúa! - Cô thì thầm - Bây giờ vẫn còn kịp đấy, mau chạy trốn đi!

“Thế nhưng bẩm sinh tôi vốn rất bướng bỉnh, khi làm việc gì mà gặp khó khăn, tôi sẽ càng gắng sức hơn. Tôi nghĩ tới khoản thù lao, cuộc hành trình mệt mỏi và còn buổi tối không lấy gì làm dễ chịu đang diễn ra trước mặt tôi đây. Lẽ nào lại phải bỏ đi, để phí hoài…? Vì sao lại không thực thi nhiệm vụ họ ủy thác và nhận khoản thù lao xứng đáng ấy, mà phải lén lút bỏ đi? Theo tất cả những gì tôi thấy, có lẽ cô ấy không được tỉnh táo lắm. Vì thế, dù thái độ của cô ấy tác động đến tôi cũng rất mạnh mẽ, nhưng tôi vẫn kiên định vẫn lắc đầu, tỏ ý tôi muốn ở lại và làm việc cần làm. Đúng lúc cô ấy lại đang định khẩn cầu tôi thêm lần nữa thì chợt có tiếng đóng cửa từ tầng trên vọng xuống rất rõ, tiếp đó là những bước chân đi xuống cầu thang. Cô gái lắng nghe giây lát, rồi giơ hai tay lên tỏ vẻ tuyệt vọng, và giống như lúc đến, đột nhiên biến mất lặng lẽ.

“Đại tá Lysander Stark và một người béo lùn với đám râu màu nâu mọc vô tổ chức trên cái cằm chẻ bước vào. Đại tá giới thiệu với tôi, đó là ông Ferguson.

- Đây là thư ký kiêm quản lý của tôi. - Đại tá nói - Nhân tiện xin hỏi, tôi nhớ lúc nãy tôi đã đóng cửa cơ mà. Tôi lo là gió lùa vào, không tốt cho anh.

- Hoàn toàn ngược lại. - Tôi đáp - Chính tôi mở cửa đấy, vì tôi thấy căn phòng này hơi ngột ngạt.

“Ông ta nhìn tôi đầy ngờ vực.

- Vậy thì chúng ta hãy bắt tay ngay vào việc đi! Ông Ferguson và tôi đã chuẩn bị dẫn ông lên trên xem xét chiếc máy.

- Tôi nghĩ là nên đội mũ vào.

- Ồ! Không cần đâu, chỉ ở trong ngôi nhà này thôi mà.

- Cái gì? Các ông đào đất sét ở trong nhà à?

- Không! Không! Đây chỉ là chỗ chúng tôi ép gạch mộc thôi. Nhưng điều này không quan trọng. Chúng tôi chỉ cần anh kiểm tra cỗ máy một chút, rồi cho chúng tôi biết nó hỏng ở đâu thôi.

“Chúng tôi cùng nhau lên tầng trên, ông đại tá xách đèn đi trước, viên quản lý thấp béo và tôi theo sau. Tôi đang ở trong một mê cung của căn nhà cổ có rất nhiều hành lang, với vô số đường ngang lối tắt cùng chiếc cầu thang xoắn ốc rất hẹp và những cánh cửa thấp nhỏ. Tất cả các ngưỡng cửa đã bị những bước chân của nhiều thế hệ giẫm lên nên lõm hẳn xuống. Trên sàn nhà của tầng gác thứ nhất không có thảm, cũng không có dấu vết của đồ đạc gia đình, tường vôi bong tróc, những mảng rêu màu xanh bẩn thỉu vẫn đang tỏa ra mùi ẩm mốc. Tôi cố làm ra vẻ không hề để ý đến những gì không liên quan, nhưng tôi không thể quên lời cảnh báo của cô gái ấy, dẫu trước đó đã không coi nó là gì. Tôi cũng lưu tâm tới hai vị đồng hành. Nhìn bộ dạng thì Ferguson là một gã đàn ông lầm lì, nhăn nhó, nhưng chỉ qua vài câu nói của ông ta, tôi có thể đoán được đó là một nông dân Anh.

“Cuối cùng, đại tá Stark dừng lại trước một cánh cửa thấp, không khóa. Phía trong là một căn phòng vuông hẹp tới mức ba người chúng tôi không thể vào cùng lúc được. Ferguson đứng ngoài, đại tá dẫn tôi vào.

- Chúng ta, - Đại tá nói - giờ đây đang đứng trong cỗ máy nén thủy lực. Nếu có ai đó khởi động máy thì sẽ không hay chút nào. Trần của căn phòng nhỏ này chính là mặt dưới của pittông và nó lao xuống sàn nhà bằng kim loại này với áp lực khá lớn đấy. Phía ngoài có một số ống nước nhỏ nằm ngang, sau khi tiếp nhận áp lực, nước sẽ truyền và gia tăng áp lực theo cách mà ông đã biết. Cái máy này rất dễ vận hành, nhưng khi vận hành không được linh hoạt lắm, gây lãng phí một phần áp lực. Xin hãy xem xét kỹ, rồi cho chúng tôi biết phải làm thế nào mới sửa được nó.

“Tôi nhận chiếc đèn từ tay ông ta rồi kiểm tra xem xét kỹ lưỡng cỗ máy. Đúng là cỗ máy khổng lồ này có thể sinh ra áp lực cực mạnh. Thế nhưng khi tôi đi ra phía ngoài, kéo cần điều khiển xuống thì nghe thấy có tiếng rít rít, tôi biết ngay trong máy có một khe hở nhỏ. Qua kiểm tra, tôi phát hiện cái vòng điện bằng cao su Ấn Độ trên đầu cần điều khiển đã bị co lại, vì thế không thể bao kín được cái cần đang chuyển động. Như vậy, đấy rõ ràng là nguyên nhân làm hao phí áp lực. Tôi đã nói vấn đề đó với hai người đi cùng. Họ đều chú ý lắng nghe, rồi hỏi một số vấn đề thực tế, và nhất là phải làm thế nào để sửa chữa được cỗ máy. Sau khi trao đổi rõ ràng cụ thể với họ, tôi quay trở lại căn phòng chính của chiếc máy. Để thỏa mãn sự tò mò của mình, tôi quan sát kỹ căn phòng nhỏ ấy. Chỉ cần nhìn một cái là nhận ra ngay, chuyện về đất sét là hoàn toàn giả dối. Vì nếu cho rằng một cái máy với công suất lớn đến thế mà lại được lắp đặt chỉ vì một mục đích vẩn vơ như vậy thì thực là hoang đường và nực cười. Tường của căn phòng làm bằng gỗ, nhưng trên sàn nhà bằng thép lại có những cái rãnh lớn. Tôi bắt đầu quan sát kỹ thì phát hiện trên đó có một lớp mạt kim loại. Tôi cúi xuống, đang xem xét thứ mạt đó thì nghe thấy ai đó hỏi bằng khẩu âm Đức rất nặng, đầy vẻ ngạc nhiên: “Anh làm gì ở đấy?”. Đồng thời viên đại tá mặt tím tái xuất hiện, nhìn chằm chằm vào tôi.

“Rất tức giận vì bị mắc lừa bởi câu chuyện phiền phức mà ông ta dày công bịa đặt, nên tôi kháy:



- Tôi đang thưởng thức món đất sét của ông. Tôi nghĩ, nếu biết được mục đích thực sự của ông khi sử dụng cỗ máy này, chẳng phải tôi càng có những chỉ dẫn tốt hơn cho ông ư?

“Nhưng vừa dứt lời, tôi lập tức cảm thấy hối hận về sự xốc nổi của mình. Mặt ông ta đanh lại, mắt ánh lên đầy tàn ác.

- Được lắm. - Ông ta nói - Anh sẽ được biết tất cả về cái máy này.

“Ông ta thoắt lùi lại vài bước, kéo cánh cửa nhỏ đánh rầm, rồi xoay khóa đóng chặt lại. Tôi lao ra cửa, cố hết sức kéo cái nắm đấm, nhưng cánh cửa đã khóa chặt rồi, dù tôi cố đẩy, cố đạp thế nào nó vẫn đóng im ỉm. Tôi gào to:

- Này, đại tá! Thả tôi ra!

“Vừa lúc ấy, trong im lặng, tôi đột nhiên nghe thấy một tiếng động khiến tôi ngay lập tức sợ thót tim. Đó là tiếng vù vù chuyển động của pittông và tiếng rít của cái ống nước bị rò. Ông ta đã khởi động cỗ máy. Chiếc đèn vẫn nằm trên sàn nhà, tôi đã đặt nó ở đấy khi xem xét các cái rãnh. Nhờ ánh đèn, tôi nhìn thấy cái trần nhà tối thui đang từ từ lắc lắc, rung rung ép xuống. Không ai rõ hơn tôi, áp lực của nó đủ để ép tôi nát bét chỉ trong vòng một phút. Tôi gào thét, lao cả thân mình đập phá cửa, cào móc ổ khóa. Tôi thảm thiết cầu xin viên đại tá thả tôi ra, nhưng tiếng rầm rầm của pittông đã át mất tiếng kêu của tôi. Trần nhà chỉ còn cách đầu tôi nửa mét nữa thôi, chỉ cần giơ tay lên là tôi có thể sờ được vào cái bề mặt thô cứng ấy. Lúc ấy, một ý nghĩ bỗng vụt qua óc tôi, rằng nỗi đau của một người khi chết phần lớn bị quyết định bởi tư thế trong lúc gần chết của anh ta. Nếu tôi nằm sấp, sức nặng kia sẽ đè xuống sống lưng. Vừa nghĩ tới những tiếng răng rắc khi xương bị ép gãy, tôi bất giác run rẩy toàn thân. Có lẽ tư thế khác sẽ tốt hơn, nhưng liệu tôi có đủ can đảm nằm ngửa và trơ mắt ra nhìn cái khối đen sì chết chóc ấy rùng rùng ép xuống không? Tôi đã không thể đứng thẳng được nữa, bỗng nhiên ánh mắt tôi nhằm vào một vật, và ngọn lửa hy vọng trong lòng lại bùng lên.

“Tôi đã nói, tuy trần nhà và sàn nhà bằng thép, nhưng tường lại làm bằng gỗ. Khi tôi đang liếc nhìn lần cuối cùng bốn phía, tôi chợt nhìn thấy một tia sáng vàng vọt yếu ớt xuyên qua kẽ vách gỗ. Rồi một tấm gỗ bị đẩy về phía sau, ánh đèn càng lúc càng rõ. Trong khoảnh khắc ấy, tôi thật không dám tin rằng đây chính là cánh cửa hồi sinh của đời tôi. Tôi lập tức lao ngay ra phía đó, hồn xiêu phách lạc. Tấm gỗ đóng trở lại phía sau lưng tôi, nhưng tiếng vỡ nát của cái đèn và khoảnh khắc sau đó là tiếng va đập chát chúa vào nhau của hai khối kim loại cho thấy tôi đã thoát khỏi mối hiểm họa ngàn cân treo sợi tóc…

“Khi có người kéo tay tôi rất mạnh, tôi mới bừng tỉnh, phát hiện thấy mình đang nằm trên nền đá của một hành lang hẹp. Người phụ nữ, tay cầm một ngọn nến, khom xuống, dùng tay trái kéo mạnh tôi. Cô ấy chẳng phải ai khác, chính là người bạn tốt bụng lúc nãy! Tôi đã ngu ngốc biết chừng nào khi không chịu nghe lời cảnh báo của cô.

- Mau! Mau! - Cô ấy hổn hển - Họ sắp lên đây rồi. Họ sẽ phát hiện anh không có ở đó. Trời ơi, đừng lãng phí thời gian vàng bạc nữa, mau lên!

“Lúc này, ít nhất thì tôi đã chịu nghe lời cảnh báo của cô ấy. Tôi loạng choạng đứng dậy, chạy theo cô gái ra khỏi hành lang, xuống một cầu thang xoắn ốc. Dưới cầu thang có một hành lang khá rộng. Khi chúng tôi vừa chạy tới đó thì cũng nghe thấy tiếng những bước chân đang chạy rầm rập cùng tiếng hò hét của hai người. Một người trên tầng mà chúng tôi đang ở, còn người kia ở ngay tầng dưới. Cô gái dẫn đường của tôi dừng lại, nhìn quanh tứ phía, giống như một người đã hết đường thoát thân. Tiếp đó, cô ấy đẩy một cánh cửa thông vào một phòng ngủ, ánh trăng sáng từ ngoài cửa sổ chiếu mờ mờ vào phòng.

- Đây là cơ hội duy nhất của anh đấy. - Cô ấy giục - Cao lắm, nhưng anh vẫn có thể nhảy xuống được.

“Đúng lúc cô ấy đang nói thì có ánh đèn xuất hiện ở cuối hành lang. Tôi thấy thân hình gầy đét của tên đại tá Lysander Stark đang chạy rất nhanh, một tay xách đèn, một tay cầm một hung khí giống như con dao thái thịt của đồ tể. Tôi chạy thục mạng vào phòng, đẩy mạnh cửa sổ và nhìn ra ngoài. Trong ánh trăng, vườn hoa sao mà êm đềm, ngọt ngào và sinh động đến thế! Từ đây xuống dưới đó không thể dưới 10m! Tôi trèo lên bậu cửa sổ nhưng còn do dự, chưa nhảy xuống ngay khi biết ân nhân cứu mạng của tôi sẽ ra sao lúc kẻ côn đồ truy đuổi tới. Nếu cô ấy bị hại, tôi quyết không sợ hiểm nguy, sẽ quay lại giúp. Ý nghĩ ấy vừa lóe lên trong óc tôi thì hắn đã chạy tới cửa, định đẩy cô ấy ra để xông tới. Nhưng cô gái đã ôm chặt lấy hắn, cố hết sức giữ hắn lại.

- Anh Fritz! Anh Fritz! - Cô ấy hét lên bằng tiếng Anh - Hãy nhớ đến lời hứa trước đây của anh với em! Anh đã hứa là sẽ không bao giờ làm thế nữa cơ mà. Anh ta sẽ không nói ra đâu! Lạy Chúa! Anh ta nhất định sẽ giữ yên lặng mà!

- Em điên rồi, Elise! - Hắn gầm lên, cố hết sức thoát ra khỏi vòng tay của cô ấy - Em sẽ làm hỏng chuyện của chúng ta mất. Hắn đã thấy quá nhiều rồi. Buông anh ra!

“Hắn đẩy ngã cô ấy sang một bên, xông tới cửa sổ, lấy hung khí chém tôi. Lúc này cả thân tôi đã ở ngoài cửa sổ, nhưng khi hắn chém mạnh tới, hai tay tôi vẫn bám vào bậu cửa sổ. Tôi bỗng thấy đau kinh khủng, vội buông ngay tay ra và rơi xuống vườn hoa phía dưới.

“Tuy rớt xuống khá mạnh, nhưng tôi may mắn không bị thương, lao bừa vào một lùm cây thấp. Tôi hiểu là mình vẫn chưa thoát khỏi mối hiểm nguy. Nhưng đúng lúc tôi định chạy thì bỗng cảm thấy cả người hết sức mệt mỏi và choáng váng kinh khủng. Tôi nhìn vào bàn tay đang đau đớn tới mức cứ giật giật, lúc ấy mới phát hiện là ngón tay cái của mình đã bị chém đứt rồi, máu không ngừng tuôn ra từ đó. Tôi cố hết sức, lấy khăn tay quấn chặt vết thương lại. Nhưng tôi bỗng thấy ù tai, rồi ngất đi, ngã lăn ra trong bụi hoa tường vi.

“Không biết tôi đã ngất đi bao lâu, chắc chắn là khá lâu, vì khi tôi tỉnh lại, trăng sao đã lặn, mặt trời đang ló ra ở đằng đông. Quần áo của tôi ướt đẫm sương đêm, còn tay áo sũng máu từ vết thương ở ngón cái. Cơn đau khủng khϊếp từ vết thương khiến tôi lập tức nhớ lại mối hiểm nguy đêm qua và chợt hiểu ra rằng tôi vẫn chưa thoát khỏi hai tên vô lại kia. Tôi liền chồm dậy. Nhưng điều làm tôi kinh ngạc là, khi tôi nhìn quanh thì không hề thấy một căn nhà nào, cũng chẳng thấy vườn hoa đâu cả. Thì ra, tôi đang nằm ở góc một hàng rào cây sát đường cái, cách không xa là một công trình dài dài. Khi đi tới gần thì tôi phát hiện, đó chính là cái ga tàu tối hôm qua tôi đã đến. Nếu như không có vết thương đáng sợ thế này trên tay tôi thì tất cả những gì đã xảy ra trong những giờ phút kinh hoàng ấy có lẽ chỉ là một cơn ác mộng…

“Tôi bước vào trong ga mà vẫn còn choáng váng, hỏi thăm thông tin về chuyến tàu sáng. Được biết, trong vòng một giờ tới sẽ có một chuyến tàu đi Reading. Tôi nhận ra người trực ban là nhân viên đường sắt mà tôi gặp lúc tới đây. Tôi hỏi anh ta, đã từng nghe nói tới đại tá Lysander Stark bao giờ chưa. Với anh ta, cái tên ấy có vẻ khá xa lạ. Tôi hỏi có chú ý đến chiếc xe ngựa đợi tôi đêm qua không, anh ta bảo không. Hỏi gần đấy có đồn cảnh sát nào không, anh ta bảo ngoài ba dặm có một đồn.

“Với tôi thế này, vừa đau vừa mệt thì ba dặm quả là quá xa. Tôi quyết định sẽ báo cảnh sát sau khi về thị trấn. Lúc về tới thị trấn mới hơn 6 giờ một chút, nên trước tiên tôi đi băng bó vết thương. May nhờ vị bác sĩ đây đưa tôi tới chỗ ông. Tôi xin giao phó vụ án này cho ông, và sẽ làm mọi việc hoàn toàn theo ý ông.”

Nghe xong câu chuyện khác thường này, cả hai chúng tôi ngồi bất động hồi lâu. Rồi Sherlock Holmes lấy một trong số các quyển sổ cũ kỹ và nhạt nhẽo mà anh vẫn dán những bài báo từ trên giá xuống.

- Ở đây có một mục quảng cáo, có thể sẽ làm các anh thấy hứng thú đấy. - Holmes nói - Tất cả các báo một năm trước đều đăng tin này. Nghe tôi đọc nhé: “Tìm người: Anh Jeremiah Hayling, 26 tuổi, kỹ sư thủy lực. Sau khi rời căn hộ thuê lúc 10 giờ đêm mồng 9 tháng này đến nay không có tin tức gì. Trên người mặc…” A ha! Tôi nghĩ là trước đây “đại tá” đã phải đại tu cỗ máy của ông ta một lần rồi.

- Chúa ơi! - Bệnh nhân của tôi kêu lên - Vậy là điều này giải thích cho những lời mà người phụ nữ đó đã nói.

- Không còn nghi ngờ gì nữa! Rõ ràng, “đại tá” là một tên đồ tể lạnh lùng, quyết không để bất cứ thứ gì ngáng trở mưu đồ của hắn, giống như bọn cướp biển vẫn làm vậy, chúng không bao giờ để bất kỳ nạn nhân nào sống sót trên con tàu mà chúng cướp đoạt. Hừm, bây giờ mỗi thời khắc đều vô cùng quý giá, do đó nếu anh cảm thấy có thể được, chúng ta sẽ đến ngay Sở Cảnh sát Scotland Yard báo án, đây chính là bước đi đầu tiên để chúng ta đến Eyford.

Khoảng ba tiếng đồng hồ sau, chúng tôi cùng lên tàu, xuất phát từ Reading, hướng về cái làng nhỏ Berkshire. Nhóm gồm có Sherlock Holmes, anh chàng kỹ sư thủy lực, thanh tra Bradstreet của Sở Cảnh sát Scotland Yard, một cảnh sát mặc thường phục và tôi. Bradstreet trải một tấm bản đồ quân sự của quận lên ghế, rồi dùng compa vẽ một vòng tròn với tâm điểm là Eyford.

- Chính chỗ này. - Ông ta nói - Vòng tròn có tâm là cái làng này, với bán kính mười dặm. Địa điểm mà chúng ta phải tìm, hẳn nằm gần vòng tròn này. Tôi nhớ anh đã nói là mười dặm.

- Xe ngựa đã chạy chừng một giờ đồng hồ.

- Anh nghĩ là khi anh đang mê man, họ đã đưa anh từ xa như thế quay trở lại à?

- Tôi nghĩ chắc họ làm thế. Tôi mang máng có cảm giác là dường như mình được nhấc lên và khiêng đến chỗ nào đó.

- Điều mà tôi không thể lý giải là... - Tôi nói - vì sao khi phát hiện thấy anh nằm ngất lịm trong vườn hoa, bọn họ lại tha cho anh? Có lẽ nào tên ác quỷ đó đã mềm lòng trước lời cầu xin của cô gái?

- Tôi cho là khó có chuyện đó. Cả đời, tôi chưa bao giờ nhìn thấy ai có bộ mặt lạnh lùng như hắn.

- Ồ! Chúng ta sẽ mau chóng làm rõ mọi chuyện thôi. - Bradstreet nói - Nhìn xem, tôi đã vẽ xong cái vòng tròn, bây giờ tôi chỉ ước một điều duy nhất là chúng ta có thể biết đích xác vị trí đó là điểm nào trên vòng tròn.

- Tôi nghĩ là tôi có thể chỉ ra được. - Holmes nói một cách nhẹ nhàng bình thản.

- Thật ư? Ngay bây giờ? - Viên thanh tra kêu lên - Ông hẳn đã phán đoán được điều gì đó. Vậy thì tốt. Xem ai trong chúng ta đồng ý với ông nhé. Tôi cho rằng nó ở phía nam, vì vùng nông thôn đó rất hẻo lánh.

- Tôi bảo đó là phía đông. - Bệnh nhân của tôi dè dặt lên tiếng.

- Tôi nghĩ đó là phía tây. - Viên cảnh sát mặc thường phục không tán thành - Chỗ đó rất heo hút.

- Tôi thiên về phía bắc. - Tôi cũng góp thêm ý kiến - Vì ở đó không có núi, mà anh bạn kia bảo là anh ấy để ý thấy xe ngựa không hề lên dốc.

- Ái chà! - Viên thanh tra cười cười - Ý kiến khác nhau ghê nhỉ. Ông tán thành ý của ai đây, Holmes?

- Các anh đều sai hết!

- Không thể nào!

- Ồ! Phải đấy, sai hết cả! Các anh nhìn đây. - Holmes chỉ ngón tay vào tâm vòng tròn - Đây mới chính là nơi chúng ta sẽ tìm ra họ.

- Thế còn quãng đường mười hai dặm? - Hatherley há hốc mồm hỏi vặn lại.

- Sáu dặm lượt đi, sáu dặm lượt về! Chẳng có gì đơn giản hơn được nữa. Chính anh chả đã nói, khi anh lên xe, con ngựa đó trông rất sung sức, bộ lông bóng mượt cơ mà. Nếu đúng là đã chạy suốt mười hai dặm đường khó đi như thế, sao bộ dạng nó có thể như vậy được?

- Mà đúng đấy, rất có thể đây là một mẹo bịp. - Bradstreet tỏ ra thận trọng.

- Đương nhiên bọn xấu ấy bản chất ra sao ta chẳng còn phải nghi ngờ gì nữa.

- Dĩ nhiên là thế rồi. - Holmes phụ họa - Bọn chúng là những tên tội phạm làm bạc giả với quy mô lớn, chúng dùng cỗ máy đó để đúc hợp kim thay thế bạc.

- Chúng tôi trước đây phát hiện ra có một bọn làm bạc giả rồi. - Thanh tra nói - Chúng đã đúc ra rất nhiều tiền đồng. Chúng tôi truy đuổi chúng tới Reading, nhưng bị mất dấu. Chúng đã có đủ cách để che giấu tung tích, chứng tỏ đó là những tên tội phạm cáo già. Nhưng bây giờ, với cơ hội ngàn vàng này, chúng làm sao mà thoát được nữa!

Viên thanh tra đã lầm, bọn tội phạm ấy đã không cam chịu sa lưới pháp luật. Khi chuyến tàu đi tới ga Eyford, chúng tôi nhìn thấy một cột khói lớn đang cuồn cuộn bốc lên từ đằng sau của một ngôi làng nhỏ gần kề, đám khói trông giống như bộ lông của một con đà điểu khổng lồ treo lơ lửng trên bầu trời làng quê.

- Cháy nhà à? - Bradstreet hỏi khi tàu rời khỏi ga.

- Vâng thưa ông. - Trưởng ga đáp.

- Hỏa hoạn xảy ra từ lúc nào?

- Nghe nói là cháy từ đêm, thưa ông. Nhưng lửa càng lúc càng dữ dội, toàn bộ khu nhà chìm trong lửa rồi.

- Nhà ai vậy?

- Thưa, là nhà bác sĩ Becher.

- Xin hãy nói cho tôi biết, - Chàng kỹ sư xen vào - bác sĩ Becher có phải là người Đức, gầy đét, có một cái mũi vừa dài vừa khoằm không?

Trưởng ga cười:

- Ồ không, thưa ông. Bác sĩ Becher là người Anh và trong xứ đạo này của chúng tôi, không ai mặc áo gilê đẹp được như ông ấy. Nhưng theo tôi biết thì ông ấy còn sống cùng một người nữa, một bệnh nhân ngoại quốc, nhưng xem ra nếu ông có ý muốn đem “món mồi” đó sấy khô thì cũng không thể được mấy mỡ đâu.

Trưởng ga vẫn còn nói gì đó rất dài. Chúng tôi chưa nghe hết đã vội vội vàng vàng chạy về hướng có ngôi nhà bị cháy. Con đường này dẫn tới đỉnh quả đồi thấp… Trước mắt chúng tôi hiện ra một tòa nhà sơn trắng trải dài. Từng cửa sổ, từng kẽ hở đang phần phật phun ra những ngọn lửa đỏ rực. Vài chiếc xe cứu hỏa ở vườn hoa phía trước đang cố gắng dập lửa một cách vô vọng.

- Chính là đây! - Hatherley hết sức xúc động hét lên - Hãy nhìn con đường rải sỏi này! Bên kia chính là bụi hoa tường vi tôi đã nằm lăn. Cái cửa sổ thứ hai kia chính là nơi tôi đã nhảy ra!

- Vậy thì, - Holmes nói - ít nhất anh cũng đã báo thù được rồi. Không còn nghi ngờ gì nữa, khi bị cái máy đó ép nát vụn, ngọn đèn dầu của anh đã làm cháy tường gỗ. Quá kích động khi đuổi theo anh nên lúc đó chúng đã không phát hiện ra lửa cháy. Bây giờ anh hãy mở to mắt ra xem, trong đám người kia có “những người bạn” tối qua của anh không? Có điều, tôi e là chúng đã chạy xa tới hơn trăm dặm rồi.

Sự lo xa của Holmes quả nhiên đã thành sự thật. Kể từ đêm hôm đó đến giờ, chẳng ai nghe được bất cứ điều gì, dù là về người đàn bà xinh đẹp hay tên người Đức nham hiểm, hay là gã người Anh nhăn nhó. Sáng sớm hôm ấy, một người nông dân đã nom thấy một chiếc xe ngựa, chở mấy người và vài cái hòm khá to, rất nặng, chạy nhanh về hướng Reading. Nhưng những kẻ gian ác ấy sau đó đã đi đâu thì chẳng ai biết nữa. Thậm chí thông minh đến như Holmes cũng không cách nào phát hiện ra dù chỉ một manh mối nhỏ có liên quan tới bọn chúng.

Lính cứu hỏa xôn xao khi phát hiện thấy trong ngôi nhà nhiều đồ vật rất kỳ lạ, họ đau đầu tìm lời giải thích về chuyện đó. Điều làm họ ngỡ ngàng hơn cả là đã thấy ở cửa sổ tầng lầu hai một ngón tay cái của ai đó vừa bị chặt đứt. Phải đến khi mặt trời lặn, họ mới chế ngự được trận hỏa hoạn dữ dội này. Nhưng nóc nhà đã bị thiêu cháy và sụp đổ, cả hiện trường trở thành một đống tro tàn đổ nát. Cho nên, ngoài một ít ống sắt và bình khí, cái máy nén thủy lực - thứ mà vì nó anh bạn bất hạnh của tôi đã phải trả một cái giá quá đắt - cũng chẳng để lại bất cứ dấu vết gì. Chúng tôi phát hiện ra rất nhiều niken và thiếc ở trong một gian nhà phụ, nhưng không hề tìm thấy dù chỉ một đồng tiền kim loại. Điều này đã đủ để chứng minh cho những chiếc hòm to, rất nặng được nhắc tới lúc trước.

Nếu không nhờ nền đất mềm để lại dấu vết khá rõ, có thể chúng tôi sẽ không bao giờ biết được anh chàng kỹ sư thủy lực đó đã được đưa ra khỏi vườn hoa như thế nào. Rõ ràng là anh đã được hai người nhấc lên. Một người có vết chân rất nhỏ, còn vết chân người kia lại to kinh khủng. Tóm lại, có lẽ gã đàn ông người Anh ít nói đó không quá ác độc như tên đồng bọn. Gã đã giúp cô gái khiêng người bị nạn ra khỏi nơi nguy hiểm.

Khi chúng tôi trở lại trên chuyến tàu quay về London, anh chàng kỹ sư thủy lực buồn thiu than thân trách phận:

- Ôi, đây đúng là một mối làm ăn quá xui xẻo cho tôi! Mất ngón tay cái của mình, mất năm mươi ghinê tiền thù lao, hỏi rằng tôi được gì nào?

- Kinh nghiệm! - Holmes vừa cười vừa nói - Anh phải hiểu, đây là chuyện thực sự rất có giá trị. Chỉ cần câu chuyện này được truyền đi thì trong cuộc sống và công việc sau này, chắc chắn anh sẽ có được danh tiếng tốt.
« Chương TrướcChương Tiếp »