Chương 2

Sang năm, khách đến hẹn lại lên, vẫn mặc áo dài màu khói xanh, ngọc bội trong như nước chảy.

Ba gian nhà cũ, đèn l*иg đong đưa trong gió đêm. Cửa gỗ khép hờ chẳng gài then, không biết là đang đợi sơn quỷ hay đợi khách dạ hành lỡ bước.

“Tiểu Yến đến đây!”

Đỗ Hoành đang ở trong đình, thấy hắn bèn cao giọng hỏi han, khuôn mặt như ngọc ra chiều thư thái. Y đứng trước một gốc quỳnh. Chẳng biết trồng được mấy năm, thân đã cao bằng nửa người, giữa hè nhành lá thêm xanh um tươi tốt, chỉ không thấy nụ hoa. Màu xanh vì thế càng ngăn ngắt buồn tẻ.

Biết hắn nghĩ gì, Đỗ Hoành đón ý: “Trồng mười năm rồi đấy, không biết vì sao chưa một lần ra hoa.”

Tiểu Yến bật cười ngó lại gần, ngón tay thuôn dài xoa vào sống lá: “Cứ đinh ninh không ra hoa thì đương nhiên hoa không nở, bằng không nhất định có ngày nó trổ hoa.”

“Đúng vậy.” Đỗ Hoành thoắt đồng tình, rồi không biết nhớ tới cái gì lại trầm xuống, bỏ thêm một câu: “Nếu mà không nở thật, thì tức là vô duyên đi?” Thanh âm nghe rất cô đơn, Tiểu Yến không đành lòng ngẩng lên, thấy khuôn mặt nhìn nghiêng của y dừng lại trên gốc quỳnh không hoa, thấy y thản nhiên mỉm cười, rồi thản nhiên rầu rĩ.

Một thân đuốc lạnh, hai chén rượu nhạt, ba mặt trăng thanh. Trong nhà đốt nhang lan, lại một đêm hè bó gối chuyện trò trong tiếng suối ngoài khe núi.

“Mùa xuân là suối đào nguyên. Tuyết vừa tan, đào liền nở, gió cuốn hoa bay xuống lòng khe, hoặc chìm hoặc nổi, cứ thế trôi theo xoáy nước. Cuối cùng là hoa rơi theo nước chảy, hay nước chảy đuổi hoa trôi? Người ta nghe vậy mà mê mẩn tâm thần. Đến hè sang thì hay nhất là tỉnh mộng đêm khuya, đương khi nửa tỉnh nửa mê nhìn thấy ánh trăng đổ xuống mạn giường như dát ngọc…”

Xuân tới đào nhuộm suối.

Hè sang ngọc dát giường.

Thu, là sương.

Đông về, lò hồng điểm một bông tuyết trắng.

Đỗ Hoành ngồi bên song cửa nói miên man không dứt, nhưng hồn tận đẩu đâu, chỉ còn vẻ cách biệt xa xăm. Tiểu Yến ngồi nghe cũng chẳng nhập tâm, dưới ánh trăng người đó thật say lòng. Mắt môi kia như họa… hắn bất chợt giật mình! Một đêm như đêm nay, nên làm gì mà nên nghĩ gì đây? Tỉnh ra nụ cười trên môi lại biến thành luống cuống, đành vùi đầu uống rượu. Mượn ba phần say mà dò hỏi chủ nhân: “Anh còn trẻ, học vấn lại cao thâm, vì sao lại lánh đời ở chốn này?”

Người thanh niên trông càng tịch mịch, lâu sau mới chậm rãi thốt lên: “Tôi là người trong lòng có bệnh, bụi hồng đường tía ngoài kia nào giống chốn nương thân? Núi sâu tuy tiêu điều, nhưng so với đường trần phong ba thì càng thanh tịnh.” Ánh mắt y nhấp nhánh như sao, bất thần vặn lại ngay: “Còn anh, chẳng sợ rừng thiêng nước độc mà chạy đến đây?”

Tiểu Yến ngẩn ngơ, nặn ra một nụ cười che đậy, không biết đáp thế nào cho phải.

Đỗ Hoành cười xòa nhỏm dậy hướng ra sân, con ngươi trong suốt xuyên qua bức tường về phía màn đêm đặc quánh: “Nghe này.”

Tiểu Yến dỏng tai lên. Không biết có phải là ảo giác, giữa bốn bề yên ả, tiếng rả rích của bầy côn trùng mùa hạ đột nhiên yếu hẳn đi, hắn nghe thấy gió núi xào xạc thổi qua ngọn cây mang theo dư vang ù ù rất nhỏ.

“Gió lên rồi.”

Đỗ Hoành phấn khởi reo lên: “Đêm lặng rợn người, trời nổi cơn giông, trong gió lại có tiếng người nói chuyện, nhất định là sơn quỷ đến!”

Tiểu Yến thắc mắc nhìn y: “Sơn quỷ hình dáng thế nào?”

“Anh đọc Thần dị kinh chưa? Chép rằng 『Vùng núi phía Tây có loài yêu thân cao hơn thước, cụt một chân, rất dạn người, ai chạm phải liền sinh bệnh, chính là sơn quỷ』, nhưng mà chưa đủ. Sơn quỷ chia làm nhiều loại, giống một chân kia cao bằng đứa trẻ, thân xanh thẫm lưng gù, hay đi giật lùi, hành động nhanh như gió, gọi là Nhiệt Nội, đông nhất trong số họ hàng. Có một loài cao lớn, bề ngoài không khác người là bao, mặc áo da, đội nón rơm, gọi là Kim Lũy. Còn một giống thân đỏ như lò bễ, cũng chỉ có một chân, gọi là Huy…” Đỗ Hoành thuộc như lòng bàn tay, vừa giảng vừa tủm tỉm cười.

Hắn gật gù tán thưởng: “Thì ra nhiều loài quỷ như vậy, anh nói tôi mới biết.”

Nghe Tiểu Yến vỗ tay, Đỗ Hoành bỗng dưng im bặt, nhìn hắn cười như sâu hơn: “Nhưng còn một loài sơn quỷ tôi chưa thấy bao giờ.”

“Loài nào vậy?” Tiểu Yến vặn mình, đổi tư thế ngồi.

Nhưng Đỗ Hoành không trả lời ngay. Riềm mi như cánh bướm đổ xuống gương mặt Tiểu Yến cái bóng thật dài. Trong nháy mắt, y vội vã quay đi, giấu mình vào bóng tối bên đình, tránh tia nhìn mê man của người khách đẹp đẽ trước mặt.

“Tiêu —” Bấy giờ y mới ôn tồn: “Chưa bao giờ thấy Tiêu. Trong núi sâu có rất nhiều giống quỷ, nhưng bọn chúng chỉ có duy nhất một đầu đàn. Bầy quỷ nói với tôi, sơn quỷ độc nhất trong vạn quỷ ấy chính là Tiêu. Tuyệt đại giai nhân, tóc dài như mây, mắt đen như mực. Tôi nghĩ, còn không phải sơn quỷ trong Cửu ca ư? Dường như có người trên góc núi. Khoác cỏ thơm, lưng thắt dây tơ. Mắt ngóng nhìn, cười mỉm như mơ. Dáng thướt tha, dịu dàng, xinh đẹp… Tôi đã gặp sơn quỷ muôn hình vạn trạng, chỉ Tiêu là chưa thấy bao giờ.”

(Nhược hữu nhân hề sơn chi a, Bị bệ lệ hề đới nữ la. Ký hàm thê hề hựu nghi tiếu, Tử mộ dư hề thiện yểu điệu. – Sơn quỷ, thuộc tập Cửu ca của Khuất Nguyên đời Chu, lời dịch Phạm Thị Hảo)

Tiểu Yến giật mình. Người thanh niên cười như giấu gió xuân, đôi mắt trong suốt như khe suối của y dừng lại trên tà áo xanh, rồi thong thả dịu dàng rơi xuống chân Tiểu Yến, đường nhìn chảy thành dòng bích thủy dập dềnh.

Viền môi hắn nhếch lên, nhưng lại không cười nổi, đành nín lặng cúi gằm tránh cái nhìn chăm chú của Đỗ Hoành.

Lúc chia tay, Đỗ Hoành tiễn hắn ra tới cổng.

“Sang năm, tôi chờ anh.”

Tiểu Yến không bằng lòng cũng không từ chối. Tà áo màu khói chập chờn trong sắc núi trước bình minh.

Còn lại thanh niên đứng sau cửa vọng theo, đợi người đi không nhìn thấy bóng, mới thở dài, thì thào ủ dột: “Chờ sang năm, mùa hè…”

Mùa hè những năm sau, khách quả thật không quên lời cũ. Luôn một thân áo xanh như khói, ngọc bội trong như nước chảy, trong bóng đêm rảo bước mà đi.

Đám cỏ cây rầu úa trong sân qua vài năm đã rờm rợp xanh um, vậy mà gốc quỳnh vẫn lầm lì không nở.

Những buổi tối mùa hè ấy, trời có trăng, có gió, cũng mấy bận mưa rơi. Dưới đuốc tàn, hắn nghe y kể chuyện giao long dưới biển xanh, linh tê trong đầm lớn, dạ xoa quần đỏ áo hồng bay lượn trên đại mạc hoang nguyên. Nghe y kể mây ở non Vu, mưa nơi đường Thục, ánh trăng đổ xuống Trường Giang sóng bạt ngàn dặm lụa màu.

Vào lúc đất giời còn nhập nhoạng, Tiểu Yến đến như nhạn lạc, đi như sương mai.

Những buổi đêm đã chìm sâu, Đỗ Hoành cười như gió xuân, mắt như ngọc ấm.

Bình minh buông xuống khi ngọn đèn lay động.

Lúc này, Đỗ Hoành mới lại gần, ghé vào ngửi mùi hương trên người hắn, trong lời nói quyện chút men say, nhưng cặp mắt vẫn tỉnh táo tinh anh: “Đôi khi tôi cứ nghĩ không biết Tiêu có dáng vẻ gì? Có khi nào cũng áo gió ngọc khe, thơm như hoa lan – giống như anh?”

Tim hắn nảy lên một nhịp.

Tiểu Yến dịch khỏi y, làm bộ tự nhiên hướng ra sân: “Năm nay quỳnh cũng không nở nhỉ…”

Đỗ Hoành cầm tay hắn.

“Tiểu Yến…”

Y gọi, giọng thanh thuần như rượu vùi dưới đất trăm năm, trầm xuống, ở bên tai quanh quẩn.

“Anh cũng biết, muôn hồng nghìn tía một đời tôi chỉ yêu thích quỳnh hoa. Nhưng hoa quỳnh lại là giống vong tình. Say mê chốc lát, sáng ra mộng xuân qua hết mới hay đã thành quá vãng. Dù ban đêm nở đẹp thế nào, rồi cũng quên hết đi. Nếu có ngày rốt cuộc chẳng thể gặp lại nhau, tôi sẽ nhớ rõ, vào lúc những lúc cô quạnh thế này, có một người tên Tiểu Yến bầu bạn trong mộng đẹp…”

Tiểu Yến đờ người quay đầu lại, sửng sốt lẫn hoài nghi, nhưng chỉ tích tắc sau, đốm sáng lập lòe nơi con ngươi tắt ngấm, chỉ còn một màu đen sắt lạnh.

Đỗ Hoành im lìm nhìn hắn, lặng lẽ mỉm cười.

Trong ánh lửa chập chờn, hắn không thấy rõ vẻ mặt của Đỗ Hoành, chỉ nhìn thấy cặp mắt sáng ngời có hào quang di chuyển, như vòm tinh tú trên trời cao.

.

Một đêm nào đó, cũng là một đêm trăng sáng.

Trong đình, nụ quỳnh óng ả như dát bạc, đung đưa trong gió đêm.

Đỗ Hoành dặn Tiểu Tứ bày biện rượu ngon, sau đó cười gọi hắn: “Tối nay thế nào cũng nở!”

Trăng lên qua ngọn trúc, hoa nở được nửa chừng, hai người đều chớm chớm say. Đỗ Hoành cắt đặt tiểu đồng: “Không còn việc gì nữa, các người đều lui xuống cả đi!”

Tiểu Yến cười ầm lên, loạng choạng níu tay y: “Say rồi! Nơi này trừ ba người chúng ta thì làm gì còn ai!”

Đỗ Hoành cũng phá lên cười: “Sai rồi! Chỗ tôi đây trong ngoài rất nhiều người, chả lẽ anh không thấy?”

Tiểu Tứ hớt hả ra chái đình cao giọng: “Công tử nói không còn việc gì, cho các người lui xuống cả đi!” – cũng không biết rốt cuộc là nói chuyện với ai. Hắn tròn mắt nhìn khắp một vòng, dưới ánh trăng, rừng trúc tưởng như có những cái bóng hiện lên, nhưng lại không ra hình thù gì cả.

Hắn ngơ ngác hỏi Đỗ Hoành: “Các người đang nói chuyện với ai?”

Tiểu Tứ đang trở vào trong, nghe vậy không nhịn được cười, cợt nhả: “Cậu không biết đấy thôi, cậu tôi chính là người trời giáng thế, lúc nào cũng có Nhị thập bát tú vây quanh hộ vệ!”

Tiểu Yến thộn mặt, cười rũ ra ngã sấp xuống mặt bàn. Ánh trăng làm bóng đen trong rừng trúc lờ mờ hiện lên trên mặt đất, không có gió, nhưng những cái bóng dường như lay động.

Dưới ánh trăng, tất cả đều phơi bày.

Cười đến hụt hơi mới lén nhìn Đỗ Hoành đang ngồi phía bên kia. Y ngồi ngược ánh trăng, tóc đen chảy dài, tựa như bao nhiêu hồng trần thế sự, yêu hận tình thù, mỗi một tia, một mối, đều tụ lại trên y.

Hắn không dằn được thôi thúc muốn nhìn tận đáy mắt Đỗ Hoành. Bốn mắt chạm nhau, hắn đột nhiên sợ hãi.

Ánh trăng sáng như vậy kia. Dưới ánh trăng, Đỗ Hoành chậm rãi tới gần, độ ấm của một thân thể khác truyền qua manh áo mỏng, lẩn vào trong phế phủ. Giờ khắc này, nhân gian đều tịch liêu.

Qua đầu vai người ấy, Tiểu Yến thấy sắc trời mê ly. Hắn dè dặt vươn tay, từng chút từng chút như đi qua năm rộng tháng dài, cho đến khi chạm được khuôn mặt như ngọc của Đỗ Hoành. Môi y dịu dàng mềm mại, nhưng mỗi lần động thân lại tràn ra đau đớn, có ngọt ngào, nhưng có cả nỗi buồn lạnh lẽo như băng.

Tiểu Yến rã rời vòng qua lưng người nọ.

Ngoài cửa, rừng trúc rít gào, đâu như sơn quỷ đang cưỡi gió mà đi.