Chương 51: "J Bích, Át Bích, J Tép."

... Ở căn phòng số 302 tại Trọ Già Bình Dân...

Sau cái đêm "một cái giường nhỏ, một hạnh phúc to" đó, Hoài Nguyệt đã ngồi trên giường, cô hiện nguyên hình là một cô gái Trung Hoa với bộ đồ sướn xám có thêu hoa bỉ ngạn mầu đỏ rực tươi thắm. Hà nằm trên giường bây giờ đã qua cơn mơ, và họa chăng sau khi mà đã "thăng hoa khoái lạc", đã làm theo cái lý trí, hành động theo một cái cảm giác như bị giấu kín bấy lâu thì giờ cậu lại bắt đầu cảm thấy tội lỗi. Tội lỗi vì sao ư? Vì Hà đã có vợ con rồi mà vẫn ăn nằm với một người con gái khác. "Không", Hà tự nhủ lòng mình, "cái người con gái mà cậu vừa 'đút củi vào lò' tối qua đâu có phải là người, là một thế lực siêu nhiên vô hình. Mà theo như khoa học chứng minh, mọi thứ trên đời phải có trọng lượng và một thể trạng nhất định như chất rắn, chất lỏng, không khí v.v. Đằng này, cô gái mà cậu 'cá bơi trong mương' đêm qua lại là một ma nữ, một con quỷ, là thứ không có thật. Họa chăng, đêm qua là hạ tự 'tɧẩʍ ɖυ' tinh thần mà thôi". Với cách lập luận và lối suy diễn vô cùng logic của một MC tâm linh chuyên kể truyện ma mị kiêm bác sĩ hoa súng chuyên tứ vận chuyện tình cảm cái đực cho các em trớm lớn đang đến mùa nứиɠ lung tung, Hà từ từ bỏ được cái cảm giác tội lội trong lòng. Hoài Nguyệt ngồi đó quay đầu nhìn Hà hỏi:

- Anh biết rõ em là ai, mà anh không sợ em sao?

Hà nằm đó vắt tay lên chán, mắt nhìn lên cái trần nhà đã cũ hỏi lại:

- Sợ? Sợ cái gì hả em?

Hoài Nguyệt quay người lại nhìn Hà nói:

- Thì anh biết em là Thất Thiên Tuyệt Sát, con quỷ út trong thất trinh nữ... Người mà anh sẽ phải tiêu diệt... Lẽ nào anh không sợ em sẽ làm hại anh?

Hà mỉm cười quay mặt nhìn Hoài Nguyệt nói:

- Nếu như em muốn hãm hại anh, thì cái hôm đầu gặp nhau ở quán nước ven đường đó... em đã cho anh ăn cả cái phích nước sôi rồi...

Nghe được cái câu nói đó của Hà mà Hoài Nguyệt có thể cảm nhận được một niềm tin vô cùng mãnh liệt mà cậu dành cho cô. Chợt hai mắt của Hoài Nguyệt lại nhòa đi vì lệ, Hà thấy vậy vội ngồi dậy đưa tay lau những giọt nước mắt đang lăn trên má cô mà hỏi:

- Sao em lại khóc?

Hoài Nguyệt nhìn Hà không nói lên lời, làm sao cô có thể nói cho Hà hiểu được rằng trong suốt quãng thời gian hơn 1000 năm làm quỷ, đây là lần đầu tiên cô thực sự cảm thấy hạnh phúc, hay ít ra là sự hiện diện của mình là có ý nghĩa. Điều khiến Hoài Nguyệt bây giờ cảm thấy vui mừng nhưng cũng khổ tâm không kém, mừng là vì cô đã không bị hắt hủi, vì sau bao nhiêu năm thì quả tim của cô vẫn ấm nồng, vẫn không bị trùng âm xâm phạm. Khổ tâm, khổ tâm là ở việc làm sao có thể thuyết phục hay nói cho Hà biết được rằng rồi cuối cùng thì Hà cũng sẽ phải tiêu diệt cô, chỉ có như vậy thì cái vùng đất này mới trở lại như xưa, mới thực sự lại thuốc về thần thánh nước Nam. Hoài Nguyệt bây giờ còn cảm thấy khổ tâm hơn nữa khi mà cô đã vận phép và lục lọi kí ức của Hà, hình ảnh, tính cách, và gương mặt của cô bây giờ là dựa trên một người con gái sâu thẳm trong thâm tâm Hà, một cô gái người Trung Hoa với cái tên Hồng Nhung. Có một điều mà Hoài Nguyệt không thể ngờ được rằng với sức mạnh của mình, sau nghìn năm hấp thù tà khí mà chỉ có thể thấy được người con gái đó trong tâm trí Hà, mà không thể nào nhìn ra được chuyện gì đã xảy ra, cứ như thể là có một bàn tay vô hình quyền năng đà đào sâu trôn chặt cái kí ức đó của cậu khiến cho không ai có thể nhìn nhận ra. Hà không hề biết được rằng cái hình ảnh cây khô có người treo cổ đung đưa ở trên không chỉ mình cậu nhìn thấy được, Hoài Nguyệt cũng nhìn ra được cái hình ảnh đó sâu trong tâm trí Hà, và điều còn đáng sợ hơn nữa đó là cô nhìn thấy một người quỳ gối dưới gốc cây đó mà gào khóc. Người này trên mình mặc bộ đồ Quan Mãnh Dần, vẫn là chiệc áo quan bào đen tuyền, vẫn là cái mũ Kim Ô. Chính cái tiếng của vị quan lớn gào khóc bất lực như làm cho con tim của cô phải quặn lên nhói đau vô bờ, cái tiếng khóc thét cho việc "lực bất tòng tâm". Nhìn cái hình ảnh đó mà Hoài Nguyệt lại nhớ đến cái câu thơ nói về hoa bỉ ngạn "hoa nở không lá, lá mọc không hoa. Ngàn nhớ vạn thương, mãi không tương ngộ".

Hoài Nguyệt không đáp lại câu hỏi của Hà, mà chỉ từ từ rúc vào lòng cậu như để giấu đi những cái giọt nước mắt khổ tâm. Họa chăng Hoài Nguyệt tìm lấy hơi âm từ cơ thể Hà như để cố xua đuổi những suy nghĩ còn đang bộn bề trong đầu. Hà vòng tay ôm chặt lấy Hoài Nguyệt, cậu đưa một tay lên vuốt mái tóc đen mượt của cô. Như nhớ ra điều gì đó, Hà hỏi:

- À... Mà sao anh lại gọi em là Hồng Nhung nhỉ? Không lẽ đó mới là tên thật của em?

Sau mấy giây im lặng, Hoài Nguyệt đáp:

- Không, tên thật của em là Hoài Nguyệt.

Hà nhăn mặt khó hiểu:

- Rõ ràng ở đền anh luôn miệng gọi em là Hồng Nhung.

Hoài Nguyệt vẫn không nói gì, thế rồi để đánh lạc hướng thì cô nói:

- Em sẽ kể cho anh nghe về sự tích thất trinh nữ nhé, anh có muốn biết không?

Hà gật đầu lia lịa, thế rồi Hoài Nguyệt bắt đầu kể từ chuyện Cao Biền nhận ra địa hình vùng này manh hình dáng hổ phục, rồi việc ông ta trấn yểm bẩy trinh nữ ra sao. Hà ngồi đó lắng nghe, thế rồi cậu nói:

- Cao Biền thì từ trước đến nay anh nghĩ dân Nam chỉ đồn thổi lên hình ảnh quyền lực, nhưng quả thật là không ngờ ông ta thực sự có tài cán vậy sao?

Hoài Nguyệt nói:

- Cha nuôi em không chỉ giỏi về phong thủy mà còn trấn yểm nữa anh.

Hà nói:

- Nhưng cha em liệu có quá tàn ác với dân Nam không?

Trên khuôn mặt Hoài Nguyệt bỗng thoáng chút buồn, cô cúi mặt nói:

- Phía sau mỗi người đều có một câu chuyện riêng của họ, chỉ khi nào chúng ta hiểu được câu chuyện đó thì chúng ta mới có thể hiểu hết về họ.

Hà cứng lưỡi, có lẽ cậu vừa nhận ra rằng mình có nói hớ, Hà vội vàng đổi chủ đề:

- Mà anh hỏi cái này ... nó hơi phi lý một tí.

Hoài Nguyệt ngửng lên nhìn Hà, Hà đưa tay lên chạm vào những bông hoa bỉ ngạn được thêu trên áo sườn xám của cô mà nói:

- Cái áo em đang mặc theo anh hiểu là sườn xám, một loại áo cách tân của Trung Hoa. Nhưng mà làm sao mà thời Cao Biên đã có là sao?

Hoài Nguyệt cười nói:

- Kiểu mẫu này là do mẹ nuôi em, Lã Thị Ngã nghĩ ra. Sau này huynh trưởng đã mang nó về lại Trung Nguyên. Mãi về sau người dân mới công nhận và coi nó như một trang phục truyền thống.

Hà gật gật cái đầu, thả nào mình thấy nó hơi sai sai, hóa ra là vậy.

... Tại một nơi khác thuộc địa phận Làng Quỷ ...

Theo lệnh của thầy Trà giao phó, ông anh ba đã chuẩn bị thật đầy đủ mọi thứ và lái xe tới vùng đất này. Tuy nhiên có lẽ là anh ta đã đến hơi chậm, sau Hà tới mấy ngày lận. Đặt chân tới đây, ông anh Bà xin ở nhờ nhà người quen mấy hôm và bắt đầu lần tìm Hà khắp nơi. Chỉ có điều, đó là cái diện tích của làng này không phải là quá lớn, vậy mà tìm suốt 2 ngày trời không tài nào gặp được Hà, cứ như thể có một thế lực nào đó đang giấu Hà đi và không để cho anh ta tìm ra cậu vậy. Nhưng đó không phải là điều khiến ông anh Ba lo lắng nhất, mà điều khiến anh ta có phần cảm thấy sợ hãi nơi này là cái cảm giác nó mang lại, cái cảm giác bất an cùng với sự thấp thỏm như thể có biến cố lớn sắp xảy đến với mình. Ông anh ba còn nhận ra một điều đáng sợ hơn nữa là có vẻ như cái thuật "soi đường âm" của anh ta gần như là vô dụng tại vùng đất này. Nhiều lần ông anh ba làm lễ cúng chúng sinh trong vườn và nhờ họ đi tìm tung tích của một kẻ mang mệnh tam dần, thế nhưng mà các vong hồn trở về trong tuyệt vọng, không một ai có thể lần ra manh mối của Hà. Sau nhiều lần không lần ra manh mối hay tung tích của Hà, ông anh ba lại quay ra tự soi đường âm cho bản thân, để xem xem cái mối nguy hại gì đang sắp xảy đến. Nhưng cũng chỉ là vô ích khi mà trước mắt anh ta chỉ là một mầu đen mù mịt, lại một thứ nữa bị che đi khỏi anh ta. Rất nhiều đêm ông anh ba thức trắng mà nghĩ ngợi về những việc đã xảy ra trong thời gian qua, tính kể từ cái hôm làm lễ cho thằng Hà xin khất lệnh Quan Hắc Hổ ở nhà nó. Suy nghĩ một hồi lâu, rồi anh ta lại nhớ đến cái hôm bói bài tây ở nhà thầy Trà, 3 con bài ngày nào lại hiện ra luẩn quẩn trong tâm trí anh. "J Tép, Át Tép, J Bích, chúng nó có ý nghĩa gì cớ chứ?". Ông anh ba nằm đó cố luận bài thì bất ngờ một con mèo đen nhẩy từ ngoài cửa sổ vào căn buồng tầng 2 mà anh đang nằm. Vốn là một người có căn âm nên ông anh ba cũng chẳng có gì phải giật mình hay sợ hãi. Thế nhưng mà chỉ tới khi con mèo đen này dám to gan nhẩy lên người anh ta, nó dùng chi trước cào vào người anh ta khiến anh ta phải ngồi dậy đuổi nó. Con mèo này lại nhẩy lên cái bàn kê gần cửa sổ, trước khi nó nhẩy ra ngoài, con mèo đen quay đầu nhìn ông anh ba khè anh ta 3 tiếng. Ông anh bà ngồi trên giường nhìn nó, trong cả căn phòng tối này, dưới cái ánh trăng mờ ảo hắt từ ngoài cửa sổ vào, đôi mắt con mèo sáng quắc cái mầu vàng hơi ngà ngà xanh lam. Chợt anh ba rùng mình, một cái cảm giác lạnh toàn thân thoáng qua, chợt anh ta như nhận ra rằng 3 quân bài đó ám chỉ mình và Hà.

Không chần trừ thêm một giây một phút nào nữa, ông anh ba bật dậy bật đèn và móc bộ bài tú lơ khơ trong ba lô ra ngồi trên bàn kê gần cửa sổ. Sau khi đã bỏ 2 con phăng teo ra, ông anh ba tráo bài thật kĩ, thế rồi anh ta úp bộ bài vào giữa hai lòng bàn tay đưa lên trước ngực khấn vái một lúc. Khấn xong ông ba xòe bộ bài thành hình cái quạt đều tăm tắp để trên mặt bàn, trong đầu thầm nghĩ "xin hỏi trong ba lá bài, lá nào tượng chưng cho Hà", thế rồi anh ta rút đại một lá, lật lên bàn là con J tép. Ông anh ba lại nhét lại lá bài đó vào giữa bộ bài và tráo thật kĩ, làm đi làm lại như thế thêm 2 lần nữa. khi mà cả 3 lần đều bốc ra được lá J tép thì anh ta mới bắt đầu cảm thấy chột dạ, mồ hôi bắt đầu lấm tấm trên chán. Ông anh ba đặt lá J tép qua một bên, anh ta tráo bộ bài lên thật kĩ và nghĩ thầm "tôi là lá bài nào trong 3 lá", dù biết là làm việc thừa thãi, thế nhưng mà anh ta vẫn phải thử. Qua nhiên sau 3 lần bốc và tráo, con tiếp theo hiện ra chính là con J Bích. Ông anh ba vô cùng sốc, anh ta đừng dậy khỏi bàn, trên tay vẫn cầm bộ bài miệng lẩm bẩm:

- Không ... không thể nào...

Hình ảnh con J Bích nằm chính giữa bàn như ám ảnh anh ta cực độ, ông anh ba hét lớn:

- Không thể nào!

Ông anh ba cầm bộ bài ném mạnh vào tường, cả bộ bài đập vào tường văng ra tung tóe. Nhưng điều tiếp theo như khiến cho anh ta phải đứng hình trong tuyệt vọng chính là việc nhiều lá bài văng ra vương vãi trên bàn, có lá Át Bích là nằm ngay ngắn ngay bên cạnh J Bích, cứ như thể có một người âm hiện diện để bên cạnh mà ông anh ba không thể nhìn thấy được.

Người xưa nói, những người sắp chết thì có biểu hiện riêng của họ, và điều dễ nhận ra nhất đó là thay đổi tính cách hay như cách hành sử 180 độ. Bên cạnh đó là sự hấp tấp vội vã, như thể làm cho xong mọi việc trước khi bước tiếp qua thế giới bên kia vậy. Đối với anh ba thì sự hiện diện của việc thay đổi cũng rất rõ ràng, nhưng họa chăng, ông anh ba lại không thể nhận ra được điều đó, quả đúng như câu "bụt chùa nhà không thiêng". Do là người có căn rất nặng về đường âm, nhất là việc soi nên ông anh ba hầu như không bao giờ can thiệp vào chuyện của người khác, hay như ít ra là sống bằng nghề soi bói đường âm. Họa chăng lắm chỉ có người nhà, những người thân thiết quen biết thì anh ta thi thoảng nhắc khéo, hoặc là làm lễ giúp họ bớt hạn mà thôi. Trong thời gian ông anh ba ở cái nhà người thân này đã có một chuyện xảy ra, và chính cái chuyện này là điểm mở đầu cho cái mối họa sắp ập xuống đầu anh ta. Tối hôm đó đang ngồi ăn cơm với gia đình người thân, bất ngờ có tiếng hét vang vọng:

- ối giời ơi! Ông làm cái trò gì thế này! Ai giúp tôi với!

Nhanh như cắt người vợ chủ nhà nói với chồng:

- Giọng bà Trang anh ơi.

Ông chồng vội vàng nói với ông anh ba:

- Anh cứ ăn nhé, tôi chạy sang bên hàng xóm coi thử.

Hai vợ chồng buông bát đũa chạy qua bên nhà có tiếng la hét, ông anh ba không hiểu như bị sức mạnh vô hình thúc đẩy, hay như có bàn tay vô hình lôi kéo mà cũng chạy theo sau.

Cả ba người họ lao vào một căn nhà có vườn rộng, trong sân nhà này đã có lác đác mấy người hàng xóm đứng đó ngó nghiêng về phía chuồng lợn. Hai vợ chồng vội lao thẳng vào cùng với ông anh ba. Ông anh ba nhìn thì sững sờ trợn mắt, trước mặt anh ta là cảnh tượng một ông già tầm 60 đang trần chuồng như nhộng đứng trong chuồng lợn mà vộc tay bốc phân lợn ăn ngấu nghiến tựa như chè lam. Bà vợ thì khóc lóc cố kéo ông chồng già ra nhưng không thể, cứ kéo là y như rằng bị chồng đẩy ngã ra. Mấy người hàng xóm đứng đó sợ hãi không dám can thiệp hay giúp đỡ, họa chăng họ hiểu rõ chuyện gì đang xảy ra. Ông anh ba đứng đó cứng người nhìn người đàn ông già trần chuồng trong chuồng lợn, bất chợt ông già này hướng mặt nhìn ông anh ba, mồm thì rú lên những tiếng kinh hãi. Ông anh bà nhìn vào cái khuôn mặt đó thì giật mình, da gà nổi lên. Cái khuôn mặt vô hồn, hai mắt trợn tròng, cái tiếng kêu quái đản kia như khiến cho anh ta nhận ra "sao lại có người bị quỷ dữ ốp tới mức độ này?".