Chương 62: Anti-Christ

... Quãng độ năm 1972 ...

Người lính Mỹ cuối cùng lên máy bay để đi Thái Lan đặt mốt dấu chấm hết suốt 7 năm ròng rã tính từ khi chuyên gia cố vấn cấp cao đầu tiên của Mỹ đặt chân xuống Sái Gòn. Người Mỹ bỏ đi để lại đằng sau bom đạn, vũ khí quân dụng nhiều vô số kể. Họa có chăng, nào ai biết trước được rằng, ngay cả khi Mỹ đã buông tay khỏi Việt Nam rồi, phải mất đến 3 năm sau, thì Nam Bắc mới có thể về chung một nhà. Mỹ buông tay lùi bước khỏi chiến trường miền Nam đã là một bước ngoặt lớn, đó cũng chính là lúc mà ngoài Bắc tổng động viên toàn bộ quân lực của mình vào Nam, để mong trờ cái ngày thống nhất không còn xa. Toàn bộ thanh niên trai cháng, hay như những người còn đủ sức lực đều đã xung phong vào miền Nam cả. Bỏ lại sau lưng là những người già, trẻ nhỏ mong một ngày người bố, người anh , hay như người con sẽ trở về để xum họp gia đình. Cái nhà thờ ngày nào mà ông Lúc xây dựng lên vẫn còn đó, nó vẫn hiên ngang đứng vững giữa núi rừng âm u của Thái Nguyên. Họa có chăng, chỉ có mầu thời gian là bao chùm lấy nó bởi những vết sơn đã mờ, những mảng rêu phủ kín những bức tường kia, nhưng chứa đứng trong căn nhà thờ đó là một sức sống mãnh liệt, sức sống đến từ cái thứ không thuộc về Việt Nam này. Cái thứ sẽ nguyền rủa, và bám lấy vùng đất Thái Nguyên cho tới tận bây giờ.

Thời bấy giờ chính phủ ta siết chặt tự do tôn giáo, họa có chăng cũng bởi lẽ tư bản phần nào đã mượn tay Chúa Trời, hay như là danh nghĩa truyền bá đáo để làm lung lay lòng dân, chia rẽ đất nước. Chính vì thế mà ngay cả khi căn nhà thờ này bị Việt Minh hay như bộ đội sau này vào thiêu hủy toàn bộ kinh thánh hay như bức tượng thánh giá có chúa Jesus bằng gỗ, ngay cả khi mà đế quốc không còn có thể lợi dụng được tôn giáo để chia cách người dân thì vẫn còn có những con chiên ngoan đạo, những người thực sự tín vào tôn giáo của mình tồn tại. Chẳng phải người xưa đã từng có câu nói "Tín đạo, không có nghĩa là tin vào người chuyền đạo" hay sao? Căn nhà thờ đó bây giờ không còn là nơi để ca ngợi đức Chúa Trời toàn nằng hay như là lòng yêu thương bao là của Người nữa. Nó được chuyển hóa lúc thì là nhà chứa lương thực, vũ khí để gửi đi nơi khác, lúc lại là nơi để cho bộ đội xuống tuyển quân, cuối cùng thì thành một ngôi trường tự dạy trong cái xã nhỏ này. Bà Nguyệt là một người theo đạo thiên chúa, và cái đức tin của bà vẫn còn y nguyên như cái hồi bà còn là cô gái tuổi đôi mươi, cái hồi mà gia đình còn nghèo phải bươn trải làm thuê làm mướn không dám bước vào bên trong mà chỉ đứng nghe ông Lúc giảng đạo, ca ngợi về đức Chúa Trời từ bên ngoài khung cửa sổ mà thôi. Giờ đã ngoài 40, bà vẫn giữ trong tim cái hình ảnh về Chúa Trời toàn năng luôn yêu thương loài người. Ngày ngày bà vẫn tình nguyện cùng với một số người khác tín đạo còn sót lại tại cái xã này mà lui tới lau chùi, dọn dẹp căn nhà thờ cổ kính. Họa có chăng, trong mắt bà Nguyệt và những con chiên khác thì đây vẫn là căn nhà của Chúa, dù thời thế có thay đổi ra sao, vẫn phải bảo vệ và chăm sóc nó cho thật chu đáo.

Tuy rằng bà Nguyệt từ bé gia đình khó khăn không được học hành đến nơi đến chốn, nhưng dù có học lỏm học mót của người khác, bà vẫn tỏ ra rất sáng dạ và thông minh. Chính vì vậy mà bả đảm nhiệm một lớp gồm nhiều học sinh ở các độ tuổi khác nhau trong xã, dạy cho họ cái chữ để sau này có ích cho xã hội mà giúp cho đất nước phát triển. Nhưng mà dạo gần đây bà Nguyệt thường cảm thấy rất khó ở và dương như lo sợ một thứ gì đó đang luẩn quẩn quanh mình. Thứ nhất là về việc trẻ em không chỉ trong xã, mà cả những xã lân cận mất tích không để lại dấu vết gì. Điều thứ hai nữa đó là việc đôi khi đang trong nhà thờ dọn dẹp, bà bỗng cảm thấy lạnh gáy rợn da gà vô cùng, một cái cảm giác mà bà không bao giờ được phép có khi đứng trong căn nhà của Chúa. Cứ mỗi lần bà khẽ rùng mình sợ hãi khi ở trong nhà thờ là bà lại lặng lẽ quỳ xuống trước bục giảng, nơi từng có cây thánh giá mà làm dấu và xin Đức Chúa toàn năng tha thứ cho cái lối suy nghĩ tội lỗi của mình. Cứ sau mỗi lần làm lễ, bà lại cảm thấy nhẹ nhàng hơn và có thể tiếp tục làm việc, tuy chỉ có riêng một điều, đó là cái cảm giác rờn rờn vẫn luẩn quẩn quanh bà mà không hề rời đi. Tuy rằng cái cảm gió rất là thật, nhưng bà Nguyệt có vẻ như không để tâm mấy khi mà dạo gần đây, đêm nào bà ta cũng mơ thấy những thiên thần bay lượn. Phải chăng đó là cái dấu hiệu báo rằng bà Nguyệt đã được Chúa chứng cho lòng thành mà phái các thiên thần bảo hộ?

Nhưng có nói gì thì nói đi chăng nữa, cái ngày mà bà Nguyệt hiểu được nguyên nhân của cái sự rờn rợn mỗi khi mình ở trong nhà thờ đã được hé lộ. Không hiểu vụ án những đứa trẻ mất tích tại xã khi không lại được bên quân đội quan tâm tới như vậy. Trong cái thời điểm chiến tranh Nam Bắc lên tới đỉnh điểm, quân đội miền Bắc bấy giờ vẫn cắt cử người tới canh gác không chỉ riêng căn nhà thờ nghiêm ngặt mà ngay như cả dinh thự của ông Lúc ngày nào. Cả hai nơi đều bị cấm ra vào. Và tất nhiên, lớp học của bà Nguyệt cũng phải rời đi nơi khác. Không cam lòng chứng kiến cái cảnh nhà thờ không người dọn dẹp chăm nom, bên cạnh đó nghĩ rằng đây là một thử thách mà Chúa Trời ban cho. Bà Nguyệt đã dùng mọi lời lẽ để cầu xin các chiên sĩ bộ đôi canh gác để được vào lau chùi dọn dẹp. Tuy biết bà Nguyệt là người theo đạo Thiên Chúa Giáo, nhưng thấy bà hiền lành thật thà, bên cạnh đó thường chắm sóc các chiến sĩ bộ đội tận tình nên họ cũng chiều lòng. Những chiến sĩ bộ đội canh gác đồng ý để cho bà Nguyệt vào nhà thờ hàng đêm, và chỉ một mình bà vào để dọn dẹp, lau chùi nhà thờ mà thôi. Rồi cứ như vậy, đúng 12h đêm khi mọi người đã ngủ say, bà Nguyệt tay cầm đèn pin Liên Xô lại một mình mình hì hục lau chùi, bà đâu có ngờ được rằng đây sẽ là nơi mà bà đối đầu với thế lực bóng tối đã ấm lấy Thái Nguyên suốt bao lâu nay.

Cái đêm định mệnh đó, bà Nguyệt đang vò khăn lau lại bục giảng đạo ngày nào. Bà ta vừa lau vừa nhớ lại cái hình ảnh ngày nào, cái hình ảnh mà khi trên bức tường kia còn cây thánh giá, còn tiếng ông Lúc giảng đảo, và bà Nguyệt như cảm nhận được Chúa đang ơ bên mình rất gần. Bà Nguyệt cứ vò khăn rồi lại miệt mai lau bục giảng, tay bà cố chà đi cái vết ố của thời gian như thể bà đang cố tẩy cái câu chuyện mà các chiến sĩ bộ đội kể cho mình nghe về ông Lúc vậy. Từ trước tới nay, bà Nguyệt vẫn luôn luôn tôn trọng ông Lúc và tin ông là người của Chúa. Nào ngờ đâu, bây giờ các chú bộ đội lại kể rằng ông Lúc thờ quỷ, chính ông ta đã gọi quỷ lên mà ám lấy cả cái vùng này. Sợ rằng còn có nhiều uẩn khúc và hiểm họa tiềm tàng đằng sau nhưng việc ông Lúc đã làm, thế nên bên quân đội đã cắt cửa người canh gác nhằm đề phòng khi có chuyển biến lớn. Bà Nguyệt có hỏi các chiến sĩ bộ đội rằng tại sao khi ta bình thường hóa quan hệ với Pháp không yêu cầu bên họ bắt tạm giam ông Lúc thì một chiến sĩ bộ đội cho biết ông Lúc chưa từng đặt chân về lại Pháp. Ngoài ông Lúc ra, còn có một số viên tướng Pháp cũng như một bà sơ, có vẻ như tất cả bọn họ đã bỏ trốn lại tại Đông Nam Á này, và quân đội ta vẫn đang ráo riết săn lùng. Bà Nguyệt đứng ở trong khu nhà vệ sinh vò cái cái khăn lau bục mà trong đầu nghĩ ngợi, "ông Lúc một tay thiết kế và cho xây dựng cái nhà thờ này thì thử hỏi làm sao mà, ông ta lại có thể là người như thế được chứ?". Cái ý nghĩ đó vừa lóe lên thì cũng là lúc chiếc đèn pin inox Liên Xô khi không chập trờn. Bà Nguyệt cầm cái đèn pin lên gõ gõ để nó sáng bình thường lại thì chợt bà rùng mình đánh rơi chiếc đèn pin khi mà có bóng người trong bộ đồ đen đi ngang qua cửa buồng vệ sinh, thoáng qua thì có vẻ như đó là một bà sơ. Bóng bà sơ trong bộ đồ đen lướt qua rất nhanh khiến bà Nguyệt hết hồn, một tay đặt lên ngực như thể để giữ cho quả tim không nhẩy ra ngoài. Sau khi tự trấn an mình rằng đây là ngôi nhà của Chúa, bà Nguyệt rọi chiếc đèn pin đá sáng trở lại mà bước từng bước chậm rãi đi theo gọi:

- Ai đó?

Bà Nguyệt bước ra đến gian chính của nhà thờ thì bà ngạc nhiên vô cùng khi trước mắt bà là một vị sơ trong bộ quần áo dài chùm cả đầu mầu đen. Vị sơ này đừng đối mặt với bục giảng, bà ta miệng lẩm rẩm một thứ ngôn ngữ gì đó mà bà Nguyệt không thể nào hiểu được. Bà Nguyệt còn chưa hết bàng hoàng cũng như là lạ lẫm, bà tiến lại gần hơn nữa và nói:

- Sao ... sao sơ lại vào được đây?

Thế nhưng khi trong đầu bà ta liên tưởng tới câu chuyện mà có một bà sơ nữa đã mất tích cùng với ông Lúc và những viên tướng khác thì đã qua muộn. Vị sơ này quay ngang người nhìn bà Nguyệt, cái gương mặt trắng bệch với nhiều gân đen nổi lên từ cổ. Hai con con mắt trắng ra với con ngươi thu lại chỉ bằng hạt gạo, trên đôi môi thâm đen kia là một hàm răng nhọn đang nhe ra, và sau lớp áo dài đen là một cái bụng bầu to chắc tầm ngoài 6 tháng. Bà Nguyệt chỉ kịp hét lớn lên thế rồi sơ quỷ này đã vươn cánh tay với những vuốt nhọn đen ra mà cấu víu lấy vai bà mà lội lại. Có vẻ như những chiến sĩ bộ đội canh gác ngay ngoài cửa không hề nghe thấy tiếng bà Nguyệt la hét kêu cứu bên trong, chỉ đến khi họ nhận ra có gì đó không phải và lao vào trong gian chính tìm bà thì họ kinh hãi khi thấy bà Nguyệt bị đóng đinh thẳng trên tường, nơi cây thánh giá ngày nào được dựng lên ở đó. Bà Nguyệt hai tay bị đóng đinh xuyên lòng bàn tay mà rang rộng ra hai bên, trên đỉnh đầu là vô vàn chiếc đinh đóng cắm vào tường, hai lòng bàn chân dưỡi thẳng đè lên nhau bị một cây dinh dài đóng xuyên qua, tựa như là hình ảnh chúa Jesus trên thánh giá vậy.

... Quãng độ năm 1974 ...

Chiến tranh Việt Nam đến quãng thời gian này lên cao tới đỉnh điểm, và có vẻ như cái giấu chấm hết đã ngay trong tầm với của chúng ta. Cái chết đầy đáng sợ của bà Nguyệt ngày nào như làm chấn động toàn bộ người dân sống tại khu vực đó, gần như là không có một ai dám bén mảng lại gần căn nhà thờ đó. Trong giai đoạn gấp rút chuẩn bị cho chiến thắng sắp tới gần, bên quân đội mở ra đợt huy động toàn quân lực, giờ chỉ còn có một chiện sĩ canh gác nhà thờ cũng với một chiến sĩ khác đóng tại dinh biệt thự mà thôi. Ngay khi cả nước đang hừng hực khí thế hòa hợp hai miền, khi rất nhiều tấm gương đã xung phong ra trận để có thể sớm hai miền chung một mầu cờ thì lại có những kẻ ở Hà Nội trốn lệnh nghịa vụ mà tìm đưởng lẩn trốn lên đến tận nơi này. Sau quãng đường xa mệt nhọc, hai tên này thăm dò thật kĩ lương căn nhà Thờ. Khi nhận ra rằng chỉ có đúng một chiến sĩ bộ đội canh gác. Chúng lẩn cửa sau đi vào nhà thờ và quyết định ngủ lại tại một phòng họp nhỏ bên hông. Hai tên này một kẻ vì quá mệt nên đã lăn quay ra ngủ từ khi nào, chỉ còn lại có một tên là không tài nào ngủ được, hắn cứ ngồi thu lu trong góc phòng tối mà đảo mắt nhìn quanh. Không hiểu cái nhà thờ này có cái gì mà khiến cho hắn từ lúc đặt chân vào đây cứ cảm thấy bất an, toàn thân rờn rợn. Tiếng tên đồng bọn nằm bên cạnh ngáy o o ngủ ngon lành như làm cho tên này cảm thấy lo ngại hơn. Bất ngờ, từ phía cửa sổ nhìn ra hành lang trong nhà thờ bỗng xuất hiện bóng người khiến thằng này giật nảy người. Cái bóng lướt qua khá nhanh nên tên này không kịp nhận ra đàn ông hay đàn bà. Tên này lần bên hông rút ra con dao găm quân dụng và rón rén lần ra sau, có vẻ như hắn biết rất rõ cái giá phải trả cho việc trốn nghĩa vụ. Tên này tay lăm lăm con dao rón rén đi lại nhẹ nhàng như một con mèo và vểnh tai lên nghe ngóng động tĩnh. Cả dãy hành lang tối thui hùn hút và có vẻ như bên hồng nhà thờ được chia ra làm 3 dến 4 phòng nhỏ gì đó. Cứ đến mỗi một cửa phòng, tên này lại dừng lại nghe ngóng động tính bên trong cho tới khi hắn biết chắc chắn căn phòng đó không có một ai cả.

Khi chỉ còn có một căn phòng cuối cùng nằm cuối hành lang, tên này vô cùng kinh hãi và có phần hoảng sợ khi mà bên tai hắn là tiếng là tiếng trẻ con khóc ngày một rõ dần. Căn phòng cuối hành lang này không có cửa sổ nhìn ra, nên hắn không còn cách nào khác là phải nhòm từ cửa chính vào. Càng tới gần cửa, tiếng trẻ con khóc càng rõ. Thằng này thò mặt khẽ nhìn vào, dưới cái ánh trăng yếu ớt soi rọi từ cửa kính nhìn ra sân của căn phòng, hắn vô cùng ngạc nhiên khi có một cái cũi đang khẽ rung lên, và tiếng đứa nhóc phát ra từ đó. Thằng này bước vào trong và găm con dao lại vào bên hông. Hắn tiến tới gần cũi để nhìn đứa bé thì rùng mình mà lùi bước, trước mắt hắn là một đứa nhóc da đỏ ỏn như máu, trên đầu có hai gì nhô lên như sừng vậy. Tiếng khóc của đứa bé ngày một to dần khiến hắn inh tai nhức óc không thể chịu được. Tên này vừa tính lao ra ngoài thì sơ quỷ đã đứng ở cửa chặn đường, vẫn cái khuôn mặt trắng bệnh với những gân đen nổi lên, hai con mắt trăng ởn với con ngươi bé chỉ bằng hạt gạo. Thằng này hoảng hốt rút nhanh con dao ra đâm mạnh về phía trước. Nhưng chưa đâm được sơ quỷ thì bàn tay vuốt nhọn của sơ quỷ đã cắm xuyên qua cổ tay của hắn máu chảy đầm đìa. Tên này há mồm la lớn thất thanh thì sơ quỷ thọc tay vào thẳng mồm hắn mà xé toạc cả cái lưỡi của hắn ra nhét vào mồm nhai rau ráu như miếng thịt.

Thằng kia đang nằm ngủ ngon thì nó nghe tiếng hét vọng lại khi không choàng tỉnh giấc. không thấy động bọn của mình đâu, thằng này bắt đầu dậy đi tìm vì sợ thằng kia làm gì liều lĩnh mà để bị bắt thì nguy to. Tên này đi lại nhẹ nhàng khắp nơi, nó khẽ gọi tên thằng kia những mãi không thấy ai trả lời. Nó đi hết khắp các phòng bên trái dãy nhà thờ rồi lại chạy qua gian chính đi tìm các phòng bên phải. tới một căn phòng có ánh nến yếu ớt hắt ra, nó rút bên hông khẩu súng nó ăn cắp được cầm chắc trong tay. Từ trong căn phòng đó là tiếng một người phụ nữ đang khẽ ru con ngủ, cái kiểu ru mà mồm vẫn ngậm, nhưng tiếng được giữa lại ở cổ và phát ra một cách bé nhất có thể vậy. Thằng này khẽ nhòn qua cửa thì thấy một người phụ nữ ngồi quay lưng ra ngoài, tư thế như đang ăm một đứa nhóc. Nhanh như cắt, hắn lao tới bịt mồm người phụ nữ này mà chĩa súng vào đầu nói:

- Mày mà la lên là tao bắn.

Thế nhưng thẳng này như rụng rơi trân tay khi nó nhìn từ trên xuống vào lòng người đàn bà này thì thấy đứa nhóc đỏ ỏn đang mυ"ŧ những ngón tay đẫm mầu sắc nhọn của người phụ nữ. Tên này còn chưa kịp la lớn thì nó bị sơ quỷ há miệng cắn đứt một mảng thịt lớn trên tay. Thằng này rụt tay lùi lại la hét trong đau đớn, sơ quỷ ôm đứa con cũng quay hẳn người là ngoạc cái mồm lấm lem máu với hàm răng sắc nhọn đỏ ởn ra mà hét cái thứ tiếng inh tai. Tên trốn nghĩa vụ này sợ hãi cầm súng nã liên tiếp vòa người sơ quỷ và đứa bé kia. Thế nhưng khi cây nên trên kệ căn phòng vụt tắt cũng là lúc tiếng súng ngưng lại, bốn bề lại chìm trong sự yên lặng tới chết người.

Cái ngày hai miền Nam Bắc về chung một nhà đã tới, chiến dịch mùa xuân năm 1975 đã đắt một dấu chấm hết cho sự chia cách hai miền. Việc mà những chiến sĩ bộ đội thuộc viên nghiên cứu tiềm năng và phát triển được cắt cử lên Thái Nguyên ngay sau khi từ Nam trở về là thiêu rụi và phá hủy căn nhà thờ do ông Lúc xây dựng lên. Rất nhiều người dân có mặt ở đó đã tận mắt chứng kiến căn nhà thờ chìm trong biển lửa, có một điều lạ là ngay cả những người theo đạo Thiên Chúa Giáo còn sót lại ở đất Thái Nguyên cũng không hề mảy may động lòng thương xót căn nhà thờ đó. Họa có chăng, họ hy vọng rằng ngọn lửa hừng hực kia sẽ mang đi căn nhà thờ và những điều kì quái bên trong nó? Liệu đây có phải là dấu chấm hết hay chỉ đơn thuẩn là một khơi đầu mới cho những thứ đen tối hơn nữa sau này? Liệu rằng ông Lúc đã thực sự đưa được Lucifer về với trần thế? Liệu phải chăng cái đứa trẻ đỏ ỏn kia chính là kẻ chống lại Chúa, hay còn có cái tên là "anti-christ"? Liệu rằng Tam Phiên Hóa Hồn trận có đơn thuẩn chỉ là một thứ bùa trấn yểm của Trung Hoa từ ngàn năm trước như chúng ta vẫn nghĩ?