Chương 9: Cơ Tinh hiến hồn

Minh Nghi chớp mắt đã châm lửa vào túi gấm cháy đen. Sư Thanh Huyền như bị người khác bóp cổ, không nói thêm được lời nào, ngôi miếu Địa Sư rách nát chợt chỉ còn một bầu tĩnh mịch với duy nhất một ngọn lửa bập bùng lay động.

Tuy rằng không biết vì sao Sư Thanh Huyền lại kêu lên, Bùi Minh vẫn cảm thấy sống lưng dội lên từng cơn lạnh buốt. Kẻ có bộ dạng "Địa Sư" Hạ Huyền kia đứng trong điện, trên tay rõ ràng là ba đạo nghiệp hỏa—gã vừa đốt cái gì?!

Về phần mình, Sư Vô Độ không có tâm trí nào để ý tới những việc như vậy, vừa thấy kẻ áo đen trong điện tách ra, gã liền tung roi nước về phía lưng áo Sư Thanh Huyền. Nhưng roi nước vụt qua trong tay gã lại đột nhiên ngưng đọng giữa không trung như bị cái gì kìm hãm, tựa như bị rút hết khí lực, từng giọt từng giọt bắt đầu chảy xuống, đứt đoạn mà để lại trên mặt đất một vết roi.

Trên gương mặt gã hiện lên nét hoang mang, cúi đầu chỉ thấy chiếc nhẫn tro cốt nhẵn nhụi kia đã lơ lửng bay lên tự lúc nào, linh quang nhạt nhòa phiêu tán như đang cộng hưởng với vật nào đó ở phương xa. Đúng lúc ngọn lửa kia bùng lên, ánh linh quang ấy chợt tắt hẳn, trên bề mặt chiếc nhẫn đã rạn vỡ lập tức tràn ra quỷ khí ào ạt như nước.

Một chân Sư Vô Độ đột ngột khuỵu xuống, tay trái gã gồng lên ôm chặt lấy ngực, cảm giác không khác gì một đôi quỷ trảo lạnh buốt đang cào cấu tim phổi. Trong thân thể gã đã sớm không còn lục phủ ngũ tạng của người phàm, thế nhưng ngay lúc này lại phải trải qua ảo giác xuyên tim đau đớn sống động như thực.

Bùi Minh vừa thấy vậy, trong tay liền xuất ra một pháp chướng bao bọc lấy chiếc nhẫn trong không trung, tạm thời giam lại quỷ khí đã rò rỉ, cũng lập tức quay đầu nhìn kẻ châm lửa trong điện. Vốn hắn muốn xác định xem vật bị đốt kia đã bị thiêu hủy hoàn toàn hay chưa, lại chẳng ngờ được sẽ gặp ánh mắt kinh ngạc của kẻ đốt lửa.

Ánh mắt này chợt gọi dậy trong hắn một cảm giác khác thường, tựa như những bánh răng đã trật một khớp, khiến cho tất thảy về sau đều trở nên sai.

Kẻ khoác áo tiên của Địa Sư kia thực sự là Huyền Quỷ sao? Nếu là Huyền Quỷ, cái xác cháy khô trong tay gã là ai? Nếu là Huyền Quỷ, tại sao lại lấy ra vật kia từ trong áo xác chết?

Hắn đột nhiên nhớ tới một thứ khác cũng tương tự cái xác này. Thứ kia vốn được Huyền Quỷ long trọng đặt ở chính điện U Minh Thủy Phủ, dùng pháp trận để trấn áp, sau này được hắn đem về Tiên Kinh cùng với thi cốt không đầu của Sư Vô Độ—thi hài của Địa Sư. Pháp trận phong ấn cỗ thi cốt kia là chính hắn cùng các thần quan khác tìm cách phá giải, hương nến lễ lạt cúng bái trên Thiên đình là tự tay hắn mang đến, cho đến khi hắn tận mắt trông thấy Sư Vô Độ thành Tuyệt. Nhưng những ngày gần đây đất trời đảo lộn, công vụ rối rắm, hắn quả thực chưa từng nghĩ đến chủ nhân của bộ thi cốt kia sẽ như thế nào.

Sư Vô Độ đang khom người quỳ trên đất lại rung rung hai vai, phát ra tiếng cười khùng khục. Gã lúc này đã không còn biết số phận trêu ngươi là gì, chỉ muốn cố gắng làm mọi việc trong khả năng. Gã đã từng lâm vào cảnh cùng đường mạt lộ trong U Minh Thủy Phủ, không biết Sư Thanh Huyền sẽ thế nào sau khi mình chết đi, nên đơn giản muốn kéo y cùng xuống hoàng tuyền, nhưng hiện giờ nếu gã dốc hết sức lực—

Sư Vô Độ nghiến răng không để ý đến phế phủ đau đớn, hai tay hợp lại, rút hết hơi nước trong thần điện ra, kết thành một mãnh thú khổng lồ trong không trung. Trong miệng mãnh thú là răng nanh tụ lại từ quỷ khí, tiếng gầm sâu như tiếng sóng ngàn năm, lấy thế như hồng thủy mà vồ xuyên qua l*иg ngực của kẻ giữ lửa, như sóng thần ập lên bờ cát vô danh trong đêm tối. Một chớp mắt sau đó, thủy thú đã biến thành một vũng nước dưới chân tượng thần, kẻ áo đen giữ lửa đã tan thành hoang hồn trong gió, để lại một vật trong tay áo sột soạt rơi trên mặt đất.

Tất cả chỉ diễn ra trong một nháy mắt, Bùi Minh cùng Sư Thanh Huyền đều cả kinh. Nhưng thời khắc này cũng không cho phép họ kinh ngạc, vì linh hồn của Sư Vô Độ đã bắt đầu rỉ ra từ trong mặt vỡ của chiếc nhẫn. Lúc đó lại hành động điên rồ được ăn cả ngã về không như vậy, nên các đầu ngón tay gã đã tan thành bột mịn, trên thân thể cũng đã hiện ra dấu vết rạn nứt. Quỷ khí bắt đầu tạo áp lực, pháp chướng của Bùi Minh cũng dần dần rạn ra.

Bùi Minh nửa ngồi nửa quỳ trên mặt đất, hai tay đỡ lấy Sư Vô Độ đã gần như mất đi ý thức, lo lắng hỏi, "Còn cách nào khác không? Thủy Sư huynh, ngươi mau nghĩ xem, có cái gì... không, có cấm thuật gì vá được quỷ cốt không?" Mấy thứ này thật sự không phải sở trường của hắn, lúc này chỉ hận Linh Văn không có ở đây.

Sư Vô Độ mở miệng thở dốc, cũng không phát được ra tiếng.

Sư Thanh Huyền nhìn thấy quang cảnh này trước mắt, tim đã vỡ vụn thành một mảnh phế tích.

Con người khó mà có thể đón nhận được những gì lặp lại. Khó điều dưỡng nhất là tiết trời nửa lạnh nửa ấm, mà khó chấp nhận nhất là mất rồi lại có, có rồi lại mất, như vết thương chẳng thể liền sẹo, vô duyên vô cớ lại rách ra, đầm đìa máu chảy thịt nát.

Ánh mắt y dừng lại rất lâu trên đôi mắt đang dần mất đi thần sắc của Sư Vô Độ, tựa như hồn phách cũng bị giam cầm nơi đó. Sống nương tựa vào nhau suốt mấy trăm năm, đôi mắt kia đã từng chứng kiến y chào đời, cứng cáp, làm người, làm thần.

Thời thiếu niên của Sư Vô Độ tuyệt không có giây phút nào tiêu dao. Từ khi nắm tay em nhỏ rời nhà, gã đã hạ quyết tâm lựa chọn giữa vận mệnh an nhàn của hai người, từ đó một mực khổ tu trong đạo quán. Sư Thanh Huyền tính tình thuần phác, có được đồ ăn ngon hay đồ chơi đẹp đều phải lên núi tặng gã, phần lớn thời gian đều ngồi đợi ngoài hành lang nhìn huynh trưởng tu hành khắc khổ. Chỉ chờ thôi y cũng không chịu nổi, mà sắc mặt của huynh trưởng khi tu hành cũng chẳng thoải mái gì.

Y vốn được người yêu mến, lại ăn mặc như một cô nương, nên tiểu đạo sĩ trong đạo quán vẫn thường hay trêu đùa. "Thay ca ca ngươi chịu khổ, ngươi bằng lòng chứ?"

Búp bê sứ đặt dưới hành lang liền cười khanh khách. "Đương nhiên bằng lòng rồi."

Cớ sao không muốn chứ? Người đó rõ ràng đã vì y mà chết cũng đọa quỷ, lại chỉ vì không thể điểm tướng y lên Thiên đình mà trong lòng sinh thẹn. Không chỉ một lần y đã thề với thần quỷ, với Hạ Huyền, với Minh Nghi, với thương thiên. Ân nghĩa huynh trưởng không cách nào báo đáp, nếu có thể giữ lại gã trên thế giới này, dù có phải lấy chính tính mạng y ra đổi, y cũng bằng lòng.

Người phàm quỳ trước mặt thần linh, cho dù không nói ra miệng, nhưng những sở niệm suy nghĩ trong lòng cũng đều bị thần quỷ nghe thấu.

Mảnh phế tích trong lòng y hé mở ra một vũng đầm sâu trong hồn thức, trong đầm truyền đến một câu hỏi dịu dàng, "...Lấy mệnh cứu gã, ngươi bằng lòng chứ?"

Thanh âm kia quen thuộc như thế, vốn chẳng phải câu hỏi, mà là nỗi hối hận y đã từng nếm trải cả trăm ngàn lần mỗi khi gặp ác mộng quấn thân—nếu có thể thay gã đi chết thì tốt rồi.

Vì thế trong lòng y cũng cất lên một tiếng nỉ non đáp lại.

Một làn gió nhẹ thổi qua tượng thần của Địa Sư, Hạ Huyền đang ngụ trên cái xác cháy khô lại như có như không ngửi thấy mùi rượu La Phù Xuân rất nhẹ.

Hắn vốn chỉ trơ trơ chứng kiến màn hài kịch này, muốn xem thiên ý trêu ngươi đến tột cùng còn có thể ra sao, lại đã sớm quên rằng, những nhân quả báo ứng lụi tàn đổ vỡ này cũng chẳng buông tha cho một kẻ khoanh tay đứng nhìn.

Trong ngôi miếu nát bỗng nhiên truyền đến một tiếng la xé ruột xé gan của Sư Thanh Huyền, cõi lòng hắn cũng theo tiếng kêu đó mà chợt lạnh.

Cất lên tiếng kêu thảm thiết, người nọ quỳ gối trước tượng thần, trên người trồi lên bóng dáng một nữ đạo sĩ áo trắng mềm mại đến động lòng, cánh tay gác phất trần, tựa như ảo mộng. Một thoáng nhíu mày, một nét nhoẻn cười của nàng cũng có tiếng gió khe khẽ vang, vẻ dịu dàng phiêu diêu hòa tan trong gió—thần cách vốn không có hình thái, tín đồ tin là dạng gì thì sẽ thành hình dạng đó, đây cũng là dáng vẻ mà Sư Thanh Huyền ưa thích nhất khi còn làm Phong Sư.

Thần cách dần dần tách ra, để lại Sư Thanh Huyền cuộn chặt mình trên mặt đất lạnh lẽo, hứng chịu hết mọi đau đớn khi hồn lìa khỏi xác. Không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra, xưa nay hiến thần cách bảo mệnh là cấm thuật rất ít người dùng, mà mấy ngàn năm đổ lại, chưa từng ai đi hiến thần cách để vá hài cốt Quỷ vương.

Phong Sư áo trắng trong không trung bắt đầu lất phất tan đi như bụi hoa, chậm rãi tụ lại bên trong mặt vỡ chiếc nhẫn. Nàng quay đầu nhìn Hạ Huyền ở phía xa, rũ mắt mà cười, đoan trang như ngọc. Đối với tín đồ, đây là dáng vẻ tôn quý nhất của vị Phong Sư họ cung phụng, mà đối với kẻ nào đó, lại là chút ánh sáng sau trăm năm hành tẩu đêm đen.

Hạ Huyền vốn tưởng thân xác này đã bị thiêu hủy, bàn tay lại nâng lên hai tấc, muốn níu kéo chút gió tàn.

Hắn rốt cuộc nhận ra, chính hắn cũng không có tư cách gì chế nhạo Sư Thanh Huyền lừa mình dối người. Cho dù phải chịu đựng mọi tra tấn theo ý trời, hắn quả thực chưa từng cúi đầu, nhưng trong những tháng ngày đằng đẵng ở bên Sư Thanh Huyền, hắn cũng chưa từng thôi bảo vệ người ấy. Hắn không muốn Sư Thanh Huyền phải trả nợ hắn cái gì, nhưng cũng không muốn nhìn y ban ơn cho người khác. Hắn không muốn tước đi mạng sống Sư Thanh Huyền, cũng không muốn thừa nhận chân tình của y, chẳng qua là muốn y phải nợ hắn, phải nhớ kỹ, phải sống.

Nhưng cuối cùng người cũng không níu lại được tàn phong.

Linh quang mờ mờ ẩn hiện, hình bóng Phong Sư đã tan biến hoàn toàn, lấp đầy bên trong chiếc nhẫn rạn nứt. Mà vật âm tà kia sau khi đã hút hết thần cách cũng không biết đủ, lại bắt đầu hút lấy sinh hồn của Sư Thanh Huyền.

Thấy tình hình chuyển xấu, Bùi Minh vội vàng tu bổ lại pháp chướng rạn vỡ để che chở cho sinh hồn ở phía ngoài. Nhưng nhẫn thi cốt vừa nuốt được thần cách Phong Sư, bản thân Bùi Minh cũng khó có thể áp chế được những xao động cuồng bạo của nó. Mắt nhìn pháp chướng đã sắp vỡ, hắn chợt thấy một bàn tay tái nhợt không có huyết sắc đập lên cổ tay. Quay đầu lại nhìn, hắn liền đối diện với đôi mắt đầy tơ máu của Sư Vô Độ.

Sư Vô Độ cố gắng chống chọi trong thân quỷ, đem toàn bộ pháp lực truyền cho Bùi Minh, lại gỡ kim khóa trước ngực xuống để chốt lại pháp chướng. "Đi! Tìm Linh Văn!"

Bùi Minh nâng lấy Sư Thanh Huyền vô tri vô giác trên mặt đất, đáp, "Thái Thương Sơn!"

Sư Vô Độ lập tức cứa tay, vẽ một trận pháp rút đất ngàn dặm trên sàn, kéo Bùi Minh đẩy vào sau cánh cửa miếu giữa trận.

Góc áo hai người thoáng phất lên, trong chớp mắt ngôi miếu nát chỉ còn một cái xác cháy đen đã không còn sức sống, cùng một cánh cửa miếu khẽ lay động trong gió đêm.

Nơi này vốn là một ngôi miếu nát quạnh quẽ hương đèn, ít người lai vãng.

Đêm đến, hoa trong viện rơi đầy trên mặt đất, bị gió sớm cuốn dạt tới góc tường, đến ban ngày lại lớp lớp rơi thêm. Sương trắng trên mái hiên đọng thành giọt, nhỏ xuống bậc thềm kết rêu vỡ nát, tí tách điểm canh giờ.

Thân xác cháy khô không có chủ sớm đã trở nên mục nát, trong điện chỉ còn lại thanh hồn của Hạ Huyền. Hắn có vài chuyện nghĩ không ra, chỉ quỳ ở đó một thời gian dài, cũng không biết đã quỳ trong bao lâu, chỉ cảm thấy mỗi ngày đều chưa kịp bắt đầu đã kết thúc. Hắn vẫn chưa từng nhắm mắt, hai mắt không biết đang nhìn về nơi nào, hoặc cũng có thể đang không nhìn về nơi đâu, vừa vặn ứng với lời đồn khi hắn còn sống—"Không ai biết hắn đang suy nghĩ gì."

Ngoài cửa miếu vọng đến tiếng bước chân lại gần, Hạ Huyền lơ đi không để ý, vẫn tiếp tục quỳ như một thanh gỗ chết.

Một cụ bà tập tễnh đi vào trong miếu, vừa nâng mắt thấy tình trạng bên trong là cả người đều run lên, suýt chút nữa đã ngã ở bục cửa. Bà vịn lấy cửa miếu đứng dậy, quay đầu thất tha thất thểu chạy ra ngoài, một lúc sau đã gọi đến mấy người nhà quê, dẫn đầu là một thanh niên què. Thanh niên trai tráng ở trên trấn đều đã đi sửa thủy lợi, những người ở lại không mấy ai được tay chân lành lặn.

Cụ bà không ngừng sợ hãi, run giọng hỏi người thanh niên dẫn đầu, "A Nhạn... Là ai, ai làm ra chuyện đại nghịch bất đạo này..."

Người thanh niên tên A Nhạn kia liếc mắt đánh giá tình trạng trong miếu, hơi hơi cau mày, đáp, "Ai biết được, đá tạc tượng cũng không phải loại đáng tiền."

Những người theo sau đều là phụ nữ, nhìn thấy gương mặt tượng thần Địa Sư bị phá đi, trong lòng cũng thấy sợ. Một người che miệng, nhỏ giọng hỏi, "Liệu có phải người nhà của con bé ấy, hai năm trước bệnh nặng nên bị đem đi làm cọc người sống..."

"Đừng có nói nhảm, việc tử tế không làm, chỉ có bụng dạ suốt ngày để ý những chuyện linh tinh." A Nhạn kia có vẻ ngoài cau có, lời nói cũng không biết nặng nhẹ.

Cụ bà đến bái miếu níu lấy cánh tay gã, nói, "Tượng thần này..."

Gã cau mày càng chặt. "Miếu này đã chẳng còn mấy người đến viếng, còn ai sẵn lòng bỏ tiền chứ?"

Cụ bà kia vội la lên, "Con biết nó có linh mà, đợt lũ lụt năm năm trước, con còn đi theo ta đến đây cầu nguyện mà..."

A Nhạn chậm rãi bước đi trong điện, đi tới đi lui vài hồi, cuối cùng vẫn cắn răng đáp, "Ai chà... Sửa đi! Ta đi kiếm tiền."

Nói là đi kiếm tiền, tất không tránh khỏi việc đi đến từng nhà thuyết phục. Sau lưng lập tức có người tỏ ra không vui, nói, "Ai mà muốn chi tiền sửa cái miếu nát này chứ? Mà kể cả có thì tìm được thợ về đây, cũng chưa chắc có ai nhớ được tượng thần này vốn trông như thế nào. Triệu bà bà, bà có nhớ không?"

"Ta..." Cụ bà run run môi, không nói thêm được lời nào. Tuy rằng thường xuyên đến đây bái miếu, nhưng bà trước giờ vẫn không dám nhìn thẳng thần nhan.

Người vừa hỏi kia trong bụng đắc ý, lại không ngờ người thanh niên què chân kia đột nhiên lên tiếng, "Ta còn nhớ."

Người này miệng lưỡi hà khắc, khiến cho mấy người tụ lại xem huyên náo đều mất vui mà tản đi. Chính gã sau khi buông lại một câu "Con đi tìm người giúp" cũng biến mất không bóng dáng, để lại một cụ bà lẻ loi trong miếu thần.

Bà không dám ngẩng đầu nhìn dung nhan bị hủy của tượng thần, chỉ đành theo như ngày thường, quét quét tước tước bàn thờ đặt trước pho tượng. Bà vừa dọn dẹp vừa nói chuyện huyên thuyên, cũng không biết là nói để pho tượng nghe, hay là nói để chính mình trấn tĩnh.

"A Nhạn là một đứa trẻ đáng thương, có đáng thương mới nhớ tới ân nghĩa... Tượng thần hiện tại của đại nhân là do nó nặn, năm năm trước nó hẵng còn nhỏ, nói là mùa lũ lụt năm đó được đại nhân cứu vớt, đã từng nhìn thấy dáng vẻ của ngài... Bây giờ lớn rồi, cái miệng cay nghiệt đó cũng không bảo được rồi..."

Mười thần quan đấu đèn Trung Thu đứng đầu trên Thiên đình, mỗi năm xử lý kỳ nguyện của dân chúng không tới một ngàn thì cũng mấy trăm, không thể việc nào cũng nhớ rõ từng ly từng tí. Nhưng nếu là chuyện của năm năm trước, sông nước chợ quỷ, thiếu niên cụt chân, một chuỗi những manh mối này xâu lại vẫn có thể khơi ra từ sâu trong ký ức Hạ Huyền một vài chuyện xưa cũ. Ngôi miếu Địa Sư cạnh con sông này, năm năm trước hắn quả thực đã từng đến đây cùng Sư Thanh Huyền.

Đúng tháng bảy năm năm trước kia, lũ lụt hoành hành, tất cả miếu thần đều mất linh, trở thành nơi cưu mang cho nạn dân chạy lụt.

Hạ Huyền cùng Sư Thanh Huyền ẩn thân phía sau tượng thần, nhìn thấy trong miếu ngoài miếu đều là người nằm la liệt. Rất nhiều người bị thương ở tay chân vì đê đất lở, nếu không cứu chữa kịp thời sẽ thành tật vĩnh viễn, còn có trẻ con mặt đầy bụi bặm, hít phải bụi tro không nhịn được mà khóc nấc lên.

"Minh huynh, nghĩ cách nào đi..." Sư Thanh Huyền thấy trong lòng khó chịu muốn chết, năm ngón tay nắm chặt cây quạt đã lộ rõ đốt tay trắng bệch.

Hạ Huyền cau chặt đôi mày, nói, "Ngươi đã có lòng như thế, sao không gọi ca ca ngươi đến mà quản?"

Sư Thanh Huyền cũng không để ý tới giọng điệu chế nhạo của Hạ Huyền đối với Sư Vô Độ, đáp, "Ta, để ta gọi ca ca..." Y đã cúi đầu chuẩn bị thông linh cho Sư Vô Độ. Nhưng tiết đại thử vừa qua đi, [1] những chỗ gần sông ngòi đều gặp úng lụt, Sư Vô Độ chỉ thiếu điều không thể phân thân, nói cứ gọi là sẽ đến được quả thực hơi khó.

Đúng lúc này, một người ngả nghiêng lảo đảo xông vào cửa miếu, thất hồn lạc phách kêu to, "Đò trên sông sợ là không về được rồi!"

Thời điểm ấy, trên sông còn không bắc nổi cầu, người hay hàng muốn qua lại đều phải nhờ vào đò. Nghe được tin này, một nửa số người trong miếu đều tái mặt, có thể là trên đò có hàng, càng có thể là trên đò có người thân. Sư Thanh Huyền chớp mắt đã muốn đứng dậy, bị Hạ Huyền giữ lại, nói, "Ngươi ở lại đây, để ta đi xem."

Lúc hắn tới được phía trên con sông, chỉ thấy bầu trời vần vũ như đã bị chọc thủng, mưa xuống xối xả như vỡ đê. Nước dưới sông dâng lên không ngừng, ào ạt cuốn đi củi khô cành nát. Mấy con đò giữa sông đang xoay tròn theo gió, người chèo thuyền đã bị sóng lớn nuốt chửng, để lại mấy người sống sót trên thuyền sợ đến mức hồn vía lên mây. Chỉ có một thiếu niên cụt chân tay trái vẫn níu lấy một đứa trẻ bị rơi xuống sông, tay phải nắm chặt cột buồm trên thuyền.

Lần đại nạn này, nếu không phải Thủy Sư đích thân tới thì cũng thật khó có thể xoay trời chuyển đất. May thay, nhìn thấy cảnh này lại là Hạ Huyền.

Trên đất đỏ làm vua, dưới nước đen làm chủ. Đối với hắn, cứu người trên ba con đò giữa tâm hồng thủy cũng chẳng khác gì việc lấy đồ trong túi. Chỉ là hắn nhất thời không để ý, hắn đang vào vai Địa Sư Nghi trên Thiên đình, vốn không thể đưa ra lựa chọn ấy, cứu độ kiếp nạn này.

Cụ bà thắp một nén hương trong lư, trong miệng lầm rầm không dứt, "Ơn này của đại nhân cái thân già này còn nhớ rõ, A Nhạn cũng nhớ rõ..."

Thế sự vốn là như thế, sẽ không có tín ngưỡng nào không có lý do. Năm năm đằng đẵng, bà trước sau như một chăm lo cho ngôi miếu cô quạnh, hương đèn thưa thớt này, chẳng qua là vì có tình nghĩa sâu đậm hơn những kẻ khác mà thôi.

Hạ Huyền nhìn thấy khói nhẹ lượn lờ bay lên, tự dưng nhớ lại lần đầu tiên xem huyết xã hỏa ở trấn Bác Cổ.

Mới đầu khi nhìn thấy diễn viên thủ vai mình máu tươi đầm đìa, vui mừng chém gϊếŧ, trong lòng hắn cũng thấy kinh hoảng, nhưng sau đó lại nảy sinh một cảm giác kỳ dị không rõ tên. Rõ ràng kia là thời khắc sụp đổ trong đời hắn khi hắn còn sống, vậy mà lại lưu trên trần thế một đoạn giai thoại khiến người khác hả lòng hả dạ, một câu chuyện thiện ác tất báo—giữa những mịt mờ không rõ, cái gọi là nhân quả lại được nối liền bằng những con đường chẳng ai hay.

Trong làn khói xuất hiện một con mèo đen cụt tai, nhảy tới cọ vào mắt cá chân cụ bà cực kỳ thân thiết.

Hạ Huyền mở to mắt—đó không phải là do pháp thuật hóa thành. Có lẽ là do thiên duyên trùng hợp, mà cũng có thể là bà lão kia nhìn thấy mèo đen mà hắn hóa ra, sau này lại dẫn về một con vật nhỏ có bề ngoài tương tự.

Sâu trong sương mù, rốt cuộc còn có bao nhiêu điều hắn chưa từng lưu ý, bao nhiêu sự thực hắn chưa dám đối mặt?

Hắn cúi mình giả trang trên Thiên đình trăm năm, tạo nên một tòa quỳnh lâu, hóa ra năm mươi vai diễn không trùng lặp. Bản thể hắn tin là thật chỉ có cái xác không hồn đong đầy dư hận kiếp trước, nhưng phải đến lúc tự tay hắn đẩy sập tòa quỳnh lâu kia, xé bỏ toàn bộ vai diễn, mới phát hiện muộn màng rằng tất cả hư ảo này đều là thật. Thương sinh linh lầm than, ghét ác như thù, là hắn; lòng nặng từ bi, là hắn; do dự khó quyết trước mắt Sư Thanh Huyền là hắn; vì tình khuất phục cũng là hắn.

Người đã đọa quỷ, bị vải thưa che mắt.

Có lẽ vì trăm năm vừa qua đã nhập quá nhiều vai diễn, cho nên đến lúc này hắn mới nhận ra, thân này khi còn sống chẳng qua hai mươi năm có lẻ, mà sau này đã trải qua thêm đằng đẵng trăm năm. Trong phút chốc hắn cảm thấy thứ mà hắn đã nhiều lần phủ nhận, một cõi lòng bồi hồi bất định ấy dưới nhân gian, rốt cuộc đã tìm được chốn về giữa ngàn vạn trần ai, ào ạt giáng xuống như thác. Đó là cái hỉ cùng Sư Thanh Huyền phó thác tính mạng, là cơn giận với kẻ dùng tà pháp tế cầu, là nỗi vui khi thiện tâm được báo đáp, là đau thương khi đánh mất một đời tự tại ấm êm. [2]

Hắn quỳ gối trong ngôi điện trước nay vẫn dành cho chính mình, không dằn được hàng mi đang run rẩy.

Chúng sinh bể khổ, chỉ được mấy người thoát xác phàm tu thành thần tiên. Mà kẻ tên Hạ Sinh đã phải bỏ mạng nơi Bác Cổ trấn ấy, trước đêm hàn lộ một mực sở cầu biến thành một tà thần thay trời hành đạo, nay lại một lần nữa tu thành một người có nỗi lòng sống động, xúc cảm tạp giao.

-tbc-

Lời tác giả: Hoa tổng không muốn đi giúp chuyện lũ lụt kia là vì muốn đi tìm quý nhân, dù sao Hoa tổng cũng không phải toàn trí toàn năng.

Chú thích:

Về tựa đề "Cơ Tinh hiến hồn": Cơ Tinh hay còn gọi là sao Cơ, thuộc hệ Thủy, là một trong nhị thập bát tú (hai mươi tám tinh tú) của thần thoại Trung Hoa, cũng là ngôi sao cuối cùng trong thất tú ở hướng

đông. Sao Cơ dùng để dự báo gió, nếu bất chợt trở nên sáng là dấu hiệu sẽ có gió nổi, nên còn được coi là Phong Thần.

[1] Tiết đại thử: rơi vào cuối tháng bảy đầu tháng tám, là khoảng thời gian nắng nóng nhất trong năm, thường hay đi kèm với thiên tai như đại hạn, lũ lụt, bão.

[2] Một đời tự tại ấm êm: nguyên văn là "minh nguyệt thanh phong," nghĩa đen là "trăng sáng gió mát," chỉ cuộc sống nhàn tản tiêu dao. "Nam sử – Tạ Huệ truyện" viết, "Vào trong phòng ta, chỉ có gió mát; cùng ta đối ẩm, chỉ có trăng sáng." Ở đây có hai cách hiểu, Hạ Huyền đang tiếc thương cuộc sống êm đẹp trước khi bị đổi mệnh, hoặc cũng có thể đang đau thương vì đã mất đi cuộc sống tiêu dao bên Sư Thanh Huyền.

(mình thích cách hiểu nào hơn thì các bạn biết rồi đó...)

Nhân đây cũng chia sẻ xíu xíu, vì có bạn hỏi mình nghe bgm gì khi dịch Phá phủ. Trước nay chỉ có một, là Mộng phồn hoa, của Hoàng Linh :3