Chương 7: Quy tắc du khách

Máy bay đáp xuống đường băng cũ nát dơ bẩn, trong bụi cỏ dại chung quanh còn có thể trông thấy một hai động vật nhỏ thoăn thoắt hoạt động, gã phi công như đã thành thói quen chẳng thèm bận tâm đám tai họa ngầm này, bởi vì nguy hiểm và bất ngờ mới là đặc sắc của nơi đây.

Máy bay xóc nảy một hồi trên đường băng, cuối cùng ổn định dừng lại, hành khách trên phi cơ phát ra một tràng vỗ tay hoan hô. Mike ngồi yên tại chỗ chờ mọi người xuống trước. Đầu tiên là đôi vợ chồng trẻ, người chồng gầy gò nhã nhặn, có chút cảnh giác, cô vợ thì có nước da màu đồng cổ xinh đẹp và mái tóc xoăn đen nhánh. Kế đó là người đàn ông ôm máy ảnh, đầu tóc rối bời, cặp kính vắt trên sống mũi, mặc áo sơ mi màu xanh viền trắng, tay áo xắn lên một nửa, tay trái còn đeo chiếc đồng hồ bằng da đã hơi mòn. Hàng ngũ cuối cùng bước xuống là vài thương nhân bản địa, hai cha xứ da đen, một người Ả Rập.

Hoang mạc bên ngoài nóng rực, khí nóng đối lưu khiến khung cảnh lắc lư không theo quy luật. Mike cởϊ áσ khoác, đeo balo lên vai, đi theo đoàn người ngồi vào trong chiếc xe bus cũ kỹ không có cửa chắn. Trên xe bus đã có vài người, nhưng không ai nói chuyện với nhau, nhìn thấy đoàn khách mới gia nhập, vài người chỉ ngẩng đầu, sắc mặt như cũ liếc nhìn một chút, chỉ là vì chút động tác nhỏ này mới thể hiện bọn họ là người sống. Mike đi tới vị trí hàng cuối cùng gần cửa sổ, đôi vợ chồng trẻ ngồi ở phía trước, người đàn ông

ôm máy ảnh vội vàng lên xe, mái tóc vẫn luôn ướt sũng, gương mặt đỏ bừng, mồ hôi nhễ nhại trên trán, ở cửa xe quét mắt nhìn một lượt, phát hiện bên cạnh Mike có ghế trống.

“Tôi ngồi được chứ?” Hắn bước lại khẽ hỏi.

“Xin cứ tự nhiên.” Mike thân thiện trả lời.

Đối thoại lại khiến vài người chú ý, người đàn ông này như trút được gánh nặng thở phào một hơi, ngồi xuống chiếc ghế bị mặt trời rọi nóng bỏng, bắt đầu loay hoay máy ảnh. Mike nhìn thấy vài tấm ảnh khói lửa tán loạn, các cô gái đang thu dọn phòng ốc và một bé gái đang bứt hoa dại ven tường trong màn hình máy ảnh, đằng sau là phần tử võ trang súng đạn đầy mình.

“Anh là phóng viên sao?” Mike nhìn trong ảnh hỏi.

“Cũng không phải.” Hắn đáp, “Tôi từng là phóng viên tạp chí, sau thì không làm nữa, bây giờ tự mở một tòa soạn báo nhỏ.” Hắn

ngẩng đầu nhìn Mike, tóc mái che phủ tầm nhìn, hắn

bực mình dùng tay vuốt ngược ra sau.

“Tôi là Andy Sterling.” Andy rút tấm danh thϊếp từ trong túi áo, Tuần San số 9, Mike chưa từng thấy tờ báo này.

“Tôi là Adam Fergus, hân hạnh làm quen với anh.”

“Anh tới đây làm gì?”

“Tôi là du khách.”

“Du khách à.” Andy nhún vai nói, “Định đi đâu trước?”

“Anh từng đến Salen Kiel chưa?”

“Đương nhiên.” Andy tìm một tấm ảnh trong máy ảnh, chính giữa bức ảnh là một người bị bom nổ bắn văng lên giữa không trung, có thể đoán rằng, sau khi rơi xuống đất hắn sẽ vĩnh viễn mất đi một phần trong tứ chi của mình.

“Tấm này chụp được ở Salen Kiel đấy, ảnh như vậy không dễ dàng bắt gặp đâu. Tờ báo của tôi doanh thu chẳng ra sao cả, gần như không có ai đặt mua, nhưng lượng đọc trên trang web rất tốt đấy.”

“Tấm này chụp khi nào vậy?”

“Tháng trước, Salen Kiel bây giờ không còn bình yên, nếu anh muốn tới đó, tuyệt đối đừng làm chuyện gì khác người, cùng đừng để cho dân bản xứ nghĩ rằng anh có gì đáng nghi. Bọn họ tràn đầy địch ý với người ngoại quốc, cho dù là trẻ con hay phụ nữ, mỗi người cũng có thể là chiến sĩ tự do.”

Mặc dù Andy đã cố gắng thấp giọng lắm rồi, nhưng vẫn có người đưa mắt nhìn hắn, may mà lúc này tài xế đã nổ máy, tạp âm ồn ào lấn át cả tiếng nói chuyện của hắn, xe bus cũ kỹ như một con mãnh thú tỉnh giấc, rùng mình mạnh mẽ, rít gào, chậm rãi khởi động.

Sau khi xe chạy, Andy cũng không nói chuyện nữa, ôm máy ảnh vào lòng dựa vào ghế đánh một giấc, khung cảnh lắc lư bên ngoài xe ngoại trừ hoang mạc vẫn là hoang mạc. Gió nóng thổi tung vài hạt cát vào trong xe, đầu của Andy ngửa ra sau, miệng hơi hé, dáng vẻ vừa mỏi mệt lại vừa thỏa mãn. Mike nhìn ngoài cửa sổ, không khí nóng rực và hạt cát thô ráp khiến anh sinh ra chút lo lắng. Đáng lẽ theo kế hoạch anh giờ phải ở Venice, trên thuyền Gondola cùng người yêu tận hưởng lãng mạn thảnh thơi, nhưng ở Salen Kiel, hàm nghĩa “du khách” này lại chẳng phải tốt đẹp và tận hưởng.

Lấy bản đồ và hướng dẫn du lịch ra khỏi balo, một tấm bản đồ cũ, bên trên đánh dấu đủ loại bút màu, có vài chỗ bỏ trống, có thể thấy ghi chép của chủ nhân sử dụng trước đây, chẳng hạn như: Hướng dẫn viên Azzawe, theo sau là một dãy số. Hoặc là: Nhà hàng Copley, chỗ ngồi đặt trước. Các nét vẽ lung tung, Mike cẩn thận tìm kiếm từng góc nhỏ, nơi nào đó trong trung tâm thành phố, nét bút khoanh vùng màu đỏ cực kỳ không tự tin, ghi chú: Say Dudley.

Lại giở tiếp hướng dẫn du lịch, đó là một quyển sách nhỏ cực sần sùi, giới thiệu nước cộng hoà Galway tràn đầy nguy cơ, nhưng nơi càng nguy hiểm lại càng có sức hút, Mike thậm chí còn tìm được vài nhà hàng món đồ ăn Trung Quốc ở những trang cuối, giới thiệu một đôi vợ chồng lăn lộn trong quân doanh chiến hỏa mịt mù để cung cấp thức ăn Trung Quốc và rượu cho các quân sĩ.

Giở đến trang cuối, chợt cảm thấy bên dưới tấm màn nhựa mỏng rẻ tiền có hơi gồ ghề, dùng móng tay cạy mở, lại rớt ra một đồng tiền xu. Đồng tiền xu này đã sử dụng khá lâu rồi, mỗi góc cạnh đều kết cáu bẩn, nhìn giống như chiếc cúc áo xám đậm, mặt trước là con số mơ nhạt không rõ, mặt sau là hình trăng non cong cong. Đặt nó vào lòng bàn tay, dưới ánh nắng lại càng bẩn hơn. Lúc này đột nhiên vang lên tiếng bom nổ dữ dội, mọi người mơ màng trên xe đều giật mình bừng tỉnh, Andy ngồi bên cạnh Mike nhảy dựng lên, kính mắt cũng tụt xuống sống mũi. Mike nắm tay lại, nhét đồng xu vào cùng chỗ với các đồng xu lẻ khác, nhìn ra ngoài cửa sổ, có thể thấy ngọn khói đen cuồn cuộn dâng cao đằng xa, tiếng súng và vài tiếng nổ mạnh liên tiếp nối đuôi nhau.

“Lại khai chiến rồi, ngày nào không bắn mấy phát, cả người bọn chúng đều ngứa ngáy.” Andy đẩy gọng kính lên lại, hai mắt đề phòng nhìn màn khói dày, thấp thoáng có thể trông thấy bóng dáng thành phố, trong hoang mạc khí nóng cuồn cuộn này, thành phố kia càng giống như ảo ảnh.

“Nơi nổ bom là nơi nào?”

“Ai biết chứ, có thể là nhà máy, hoặc là khu họp hành, cũng có thể là nhà của quan viên chính phủ nào đó.”

Gò má Andy kích động đỏ bừng, không biết do ánh nắng nóng rát hay là tiếng nổ vang đằng xa, ngón tay siết máy ảnh cũng trắng bệt, một giọt mồ hôi lăn xuống khỏi cánh tay.

“Hi vọng lúc chúng ta đến bắn nhau chưa kết thúc.”

“Anh không sợ sao?”

Andy mỉm cười vô hại, trong xe khôi phục lại bình tĩnh, thương nhân nhìn mãi thành quen, cha xứ vẽ chữ thập trước ngực, cô vợ trẻ vòng khăn lụa qua đầu dựa lên trên vai anh chồng. Andy đổi vị trí với Mike, nhoài người ra khỏi cửa sổ chụp hai tấm ảnh.

Một tiếng sau, xe bus đã đi tới thành phố trong hoang mạc.

Vừa nhảy xuống xe Mike đã ngửi thấy mùi khói súng, nhưng bốn phía xung quanh dường như rất tĩnh lặng. Đám trẻ con xúm lại quanh chiếc xe bus, đường phố kéo dài dưới ánh nắng gay gắt, hai bên là các cửa hàng, nhưng không ân cần chào đón. Những người đứng chờ dưới bóng râm mái che, nhìn chằm chằm bọn họ bằng ánh mắt nghi ngờ cảnh giác.

Andy mang hành lý của mình, trước ngực đeo chiếc máy ảnh bảo bối của hắn: “Anh muốn đi đâu?”

“Dạo loanh quanh một lát.”

“Vậy được, cẩn thận chút nhé, tôi đi làm việc đây.”

Hắn

vươn tay bắt tay với Mike, nhiệt tình lắc mấy cái: “Lát gặp, thành phố này rất nhỏ.”

Mike tạm biệt Andy, bắt đầu suy nghĩ thử vận may đi tìm nơi thiết bị theo dõi biến mất trước tiên, hay là đến cửa hàng tạp hóa lấy vũ khí, cuối cùng Mike quyết định suy nghĩ đầu tiên. Luppy đã download bản đồ GPS chính xác cho anh, tuy rằng bọn họ không mong chờ quá lớn nơi thiết bị theo dõi biến mất có tác dụng gì, nhưng đó ít nhất là một mục tiêu cụ thể.

Trước khi đi Mike ghi nhớ kỹ đường đi chủ yếu của thành phố Salen Kiel, nhưng mà con đường trước mắt phức tạp hơn nhiều so với trong trí nhớ, một vài kiến trúc đơn giản tạm bợ sẽ luôn đột ngột xuất hiện cản đường. Hơn nửa tiếng sau, khi Mike đi qua khu chợ quy mô rộng lớn, chợt phát hiện có vài người theo dõi phía sau. Mike cố tình dừng lại trước một quầy hàng hoa quả, tỉ mỉ lựa chọn một quả táo. Người phụ nữ đứng dưới mái che thái độ hoàn toàn coi thường, khóe mắt như đang bảo bỏ tiền lên bàn đi.

Sau lưng không có người đáng nghi, nhưng lần tập kích ở khu nhà Taylor đã khiến anh lúc nào cũng trong trạng thái cảnh giác, dường như con đường Luppy sắp xếp cũng không phải quá an toàn. Không biết vấn đề xảy ra ở đâu, nhưng anh cảm thấy Luppy có chút do dự và dao động, không giống như những lần trước vô cùng tự tin cẩn thận.

Sau khi ra khỏi khu chợ, đường phố dần trở nên càng khó nhận biết. Thành phố này một nửa đã bị chiến hỏa thiêu rụi, càng đi về phía trước lại càng thêm nhiều phế tích. Nhìn những căn nhà chỉ còn lại một bức tường, nước sơn màu xanh biếc tróc ra từng mảng, trên mặt đất đều là tro bụi và bột phấn, đi tiếp Mike lại phát hiện vài ngôi nhà nhỏ sừng sững lẻ loi giữa các vách tường đổ nát thê lương. Tình hình như vậy kéo dài không dứt, tạo thành khu dân thường to lớn gắng gượng hơi tàn. Giữa các nhà có người ở đều lắp mái che nắng, bởi vậy con đường này cũng có dáng vẻ rất âm u, Mike bước tới trước một căn nhà nhỏ, ruồi bọ đang bu quanh con chó hoang ngoài cửa.

Là nơi này sao? Anh đánh giá căn nhà này, nếu Allen xuất hiện lần cuối cùng ở đây, hắn nhất định sẽ để lại gì đó.

Đẩy cánh cửa căn nhà, ruồi bọ nối đàn bay sầm vào trên người anh. Trong nhà bốc lên mùi tro nóng hừng hực, ngoại trừ vài cái bàn bỏ đi, cả căn phòng đơn sơ lại rỗng tuếch, nóc nhà lởm chởm lỗ hổng bởi những trận công kích oanh tạc, ánh nắng xuyên qua ngàn lỗ thủng rọi xuống căn nhà, tạo thành nhưng đốm sáng chi chít khắp sàn nhà.

Căn nhà Luppy chính xác vạch ra, bên trong lại trống rỗng.

Trên cái bàn cũ nát bao phủ lớp bụi mỏng, ít nhất đã hơn mười ngày không có người sử dụng. Trên tường có vài nét vẽ nghệch ngoạc của trẻ con, xác chuột chết tanh tưởi ở góc tường. Sờ vào những khối lồi lõm trên mặt tường, bụi tường tích đầy dưới đất, Mike dùng tay khẽ tìm kiếm, đầu ngón tay như đâm vào vật gì đó bén nhọn trong bột phấn, phát hiện một miếng thủy tinh vỡ.

Mike quay lại chính giữa căn phòng, dựng chiếc ghế ngã ngửa kia, chú ý sàn nhà có vài vết chà màu trắng, có vẻ là dấu vết xô xát giữa ghế và mặt sàn. Những vết chà này hỗn loạn nhưng tập trung, giống như người nào đó không chịu yên phận ngồi yên trên ghế. Mike cẩn thận kiểm tra chiếc ghế, mảnh gỗ có thể tùy ý nhìn thấy khắp nơi có phần trầm trọng, trên thành tay ghế có vài vết trầy do ma sát bởi nguyên nhân nào đó, cạnh ngoài lưng ghế còn có vết màu nâu lốm đốm.

Mike ngồi lên ghế, tưởng tượng từng chuyện đã xảy ra.

Một số người đứng vây xung quanh, trói một người vào ghế, dây thừng thô to buộc chặt để lại những vết trầy trên thành ghế, lốm đốm màu nâu chính là vết máu do cổ tay ma sát với dây thừng. Bọn họ muốn lục soát thứ gì đó trên người người này, ném đi vật nào đó

vào bức

tường đối diện, có thể là di động, hoặc là thứ

khiến bọn họ cho rằng sẽ mang tới phiền phức. Hắn giãy dụa, chiếc ghế di chuyển chứng tỏ hắn từng bị tra tấn và bức cung ở đây.

Ánh mặt trời chiếu thẳng xuống người Mike. Người trên ghế là ai, những người kia là ai?

Đốm sáng di chuyển chầm chậm, bên ngoài cánh cửa khép hờ vang lên tiếng động khẽ. Mike mở bừng mắt bước lại, đẩy

cửa nhìn con đường bên ngoài.

Một bóng người thoắt cái vòng qua góc phố biến mất không thấy đâu.

==================

Nghỉ hè rồi,

rảnh hơn rồi, nên sẽ ra chương đều đặn trở lại =3=