Chương 19: Nguồn gốc của kẻ đẹp mã (14)

ĐI TÌM SỰ TIẾP NỐI CỦA LINH TRƯỞNG
Hai yếu tố mà phụ nữ giống với tinh tinh lùn là thời điểm rụng trứng được giấu kín và có thể giao phối trong suốt chu kỳ. Nhưng đến đây thì không còn điểm tương đồng nào nữa. Cơ quan sinh dục phồng lên đâu rồi, và cuộc làʍ t̠ìиɦ chớp nhoáng đâu rồi?

• FRANS DE WAAL*

Tìиɧ ɖu͙© là một biểu hiện của tình hữu hảo: ở châu Phi nó giống như việc bắt tay vậy… Rất thân thiện và vui vẻ. Không ép buộc. Được trao tặng một cách tự nguyện.

• PAUL THEROUX*

Bất kể người ta kết luận như thế nào về tính bạo lực của tinh tinh và điều đó liên quan đến bản chất con người ra sao, họ hàng linh trưởng gần gũi nhất của chúng ta, tinh tinh lùn là một kiểu mẫu trái ngược rất thú vị. Nếu như tinh tinh là hiện thân cho quan điểm của Hobbes về nguồn gốc loài người, tinh tinh lùn lại phản ánh quan điểm của Rousseau. Mặc dù được biết đến chủ yếu là người đưa ra khái niệm Kẻ mọi rợ quý phái (Noble Savage), tự truyện của Rousseau mô tả chi tiết về niềm đam mê tìиɧ ɖu͙© cho thấy nếu biết đến tinh tinh lùn, hẳn ông đã xem chúng là những bà con cùng giống loài. De Waal tóm tắt sự khác biệt trong hành vi của hai loài khỉ này bằng câu: “Tinh tinh giải quyết các vấn đề tìиɧ ɖu͙© bằng quyền lực, còn tinh tinh lùn giải quyết các vấn đề quyền lực bằng tìиɧ ɖu͙©.”

Mặc dù tinh tinh lùn vượt trội tinh tinh cả về tần suất hoạt động tìиɧ ɖu͙©, con cái ở cả hai loài đều thực hiện kỳ giao phối nhiều lần, nhanh chóng thay đổi các anh chàng khác nhau, ở loài tinh tinh, các con cái đang rụng trứng giao phối bình quân từ sáu đến tám lần mỗi ngày, mặc dù chúng thường háo hức đáp lại lời mời giao phối của bất cứ con đực nào trong bầy. Nhà linh trưởng học Anne Pusey đã mô tả hành vi của tinh tinh cái mà mình quan sát được: “Sau khi giao phối trong cộng đồng mà nó sinh ra, mỗi con lại viếng thăm cộng đồng khác khi vẫn còn khả năng giao cấu… Chúng háo hức tiếp cận và giao phối với các con đực ở cộng đồng mới.”

Hành vi tìиɧ ɖu͙© ngoài bầy đàn này phổ biến ở tinh tinh, cho thấy rằng quan hệ xuyên bầy đàn không đến nỗi bạo lực như một số người tuyên bố. Chẳng hạn, một nghiên cứu gần đây về mẫu ADN lấy từ nang lông thu thập được trong tổ tinh tinh thuộc khu vực nghiên cứu Taï ở Bờ Biển Ngà cho thấy hơn một nửa số con non (7/13) có bố là những con đực ở bên ngoài bầy chính của con cái. Nếu lũ tinh tinh này sống trong một khu vực chiến tranh liên miên, các con cái sẽ khó mà thoải mái chuồn đi và lý giải cho hơn một nửa số ca mang thai được. Tinh tinh cái đang rụng trứng (bất chấp sự giám sát nhiều hơn của con đực, theo mô hình chuẩn dự đoán) né tránh sự bảo vệ/giam giữ của các con đực đủ lâu để lượn lờ tới các bầy khác, giao phối với những con đực không quen, rồi thong dong trở về bầy chính. Loại hành vi này chắc không giống với hành vi khi luôn ở trong tình trạng cảnh giác cao.

Bất kể sự thật liên quan đến mối quan hệ giữa các bầy tinh tinh hoang dã không có nguồn thức ăn ổn định là gì đi nữa thì thành kiến vô thức vẫn biểu hiện qua nhận xét như thế này: “Trong chiến tranh cũng như trong tình cảm, tinh tinh lùn và tinh tinh bộc lộ những sự khác nhau đáng ngạc nhiên. Khi hai cộng đồng tinh tinh lùn gặp nhau tại biên giới khu vực ở Wamba… chẳng những không có xung đột gây tử vong như đôi khi vẫn xảy ra ở tinh tinh, mà có thể còn có giao tiếp và thậm chí giao phối giữa con cái và con đực của cộng đồng kẻ thù.”*

Kẻ thù ư? Khi hai bầy linh trưởng thông minh gặp nhau để giao tiếp và giao phối với nhau, ai lại nghĩ rằng các nhóm này là kẻ thù hay cuộc gặp đó là chiến tranh? Hãy lưu ý đến những giả định tương tự trong trường hợp này: “Tinh tinh phát ra tiếng kêu đặc biệt để báo động cho những con khác ở cách xa biết là có thức ăn. Như vậy, đây là hình thức chia thức ăn, nhưng không nhất thiết phải cho rằng đó là làm từ thiện. Con phát ra tiếng kêu thông báo đã gặp nhiều thức ăn hơn mức nó cần thiết nên sẽ chẳng mất gì nếu chia sẻ và có thể sau đó sẽ được hưởng lợi khi một con tinh tinh khác đền đáp.”*

Hành vi có vẻ hợp tác này “không nhất thiết phải được hiểu là từ thiện”, nhưng với cách hiểu như vậy thì vấn đề không nói ra ở đây là gì? Tại sao chúng ta lại phải tìm cách lý giải cho thứ trông giống như sự hào phóng ở loài linh trưởng không phải con người, hay ở các loài động vật khác nói chung? Phải chăng hào phóng là phẩm chất chỉ có ở loài người? Những đoạn như thế này khiến người ta thắc mắc, cũng giống như Gould, rằng tại sao các nhà khoa học lại ghét phải chứng kiến sự giống nhau giữa linh trưởng và chúng ta, mặc dù nhiều người rõ ràng là mong muốn chứng minh được nguồn gốc thói hiếu chiến của chúng ta có xuất phát từ quá khứ linh trưởng.
Hãy tưởng tượng rằng chúng ta chưa bao giờ nghe nói đến tinh tinh hay khỉ đầu chó nhưng lại biết đến tinh tinh lùn trước. Hiện tại, chúng ta có vẻ tin rằng con người sơ khai sống trong xã hội lấy người nữ làm trung tâm, trong đó tìиɧ ɖu͙© đóng vai trò là cách thức giao tiếp quan trọng còn chiến tranh hiếm khi xảy ra.

• FRANS DE WAAL

Do chỉ sinh sống ở vùng rừng rậm xa xôi thuộc một đất nước thiếu ổn định chính trị (Cộng hòa Dân chủ Congo, trước đây là Zaire), tinh tinh lùn là một trong những loài có vυ" cuối cùng được nghiên cứu trong môi trường tự nhiên của chúng. Mặc dù những điểm khác biệt giữa cơ thể của chúng với loài tinh tinh bình thường đã được phát hiện từ năm 1929, mãi đến khi hành vi hoàn toàn khác của tinh tinh lùn trở nên rõ ràng thì chúng mới được xem là một nhánh phụ của tinh tinh.

Đối với tinh tinh lùn, vị trí của con cái quan trọng hơn con đực, nhưng ngay cả vị trí của con cái cũng hay thay đổi và không vững chắc. Tinh tinh lùn không có nghi lễ chính thức nào cho việc thống trị và phục tùng, giống như thứ phân cấp địa vị, thường thấy ở tinh tinh, khỉ đột và các loài linh trưởng khác. Mặc dù không phải là không có phân cấp địa vị, nhưng nhà linh trưởng học Takayoshi Kano, khi thu thập được những thông tin chi tiết nhất về hành vi của tinh tinh lùn hoang dã, cho rằng nên sử dụng từ “có ảnh hưởng” hơn là “có cấp bậc cao” khi mô tả tinh tinh lùn cái. Ông cho rằng con cái được tôn trọng nhờ được yêu mến hơn là nhờ địa vị. Trên thực tế, Frans de Waal tự hỏi không biết có thích hợp hay không khi thảo luận về cấp bậc trong loài tinh tinh lùn. Ông viết: “Nếu có thứ tự cấp bậc ở con cái thì điều đó chủ yếu dựa trên tuổi tác hơn là sự đe dọa về mặt thể chất: nhìn chung con cái cao tuổi có địa vị cao hơn các con trẻ.”

Những ai tìm kiếm bằng chứng về chế độ mẫu quyền trong xã hội loài người có thể sẽ suy nghĩ đến thực tế là ở tinh tinh lùn, “sự thống trị” của con cái không dẫn tới việc con đực phục tùng, theo cách người ta vẫn nghĩ về sự đảo ngược cấu trúc quyền lực của con đực, như ở tinh tinh và khỉ đầu chó. Tinh tinh lùn cái sử dụng quyền lực của chúng khác với linh trưởng đực. Bất chấp vị thế phục tùng trong bầy, tinh tinh lùn đực vẫn sống thoải mái hơn so với tinh tinh đực hay khỉ đầu chó đực. Như chúng ta sẽ thấy trong các thảo luận sau này về xã hội do nữ thống trị như người Mosuo*, Trung Quốc hay người Minangkabau, Sumatra*, đàn ông cũng có xu hướng sống thoải mái trong điều kiện phụ nữ nắm quyền. Trong khi Sapolsky chọn nghiên cứu khỉ đầu chó do mức căng thẳng cao mà các con đực phải chịu thường xuyên do phải liên tục chiến đấu giành quyền lực, de Waal nhận thấy rằng tinh tinh lùn tồn tại kiểu khác, ông nói, “nhìn chúng thường xuyên hoạt động tìиɧ ɖu͙© và ít gây gổ, tôi thấy thật khó mà cho rằng con đực của loài này lại chịu đựng căng thẳng”.

Về mặt giải phẫu học, con người và tinh tinh lùn, chứ không phải tinh tinh, giống nhau ở chỗ đặc biệt thích chung sống hòa bình. Cả hai loài đều sở hữu vi vệ tinh lặp (repetitive micro-satellite) (ở gene AVPR1A) rất quan trọng cho sự giải phóng oxytocin. Thỉnh thoảng vẫn được gọi bằng “ma túy của tự nhiên”, oxytocin đóng vai trò quan trọng trong những cảm giác có lợi cho giao tiếp như tình thương, niềm tin, hào phóng, yêu thương, và vâng, cả lãng mạn nữa. Như nhà nhân học kiêm tác gia Eric Michael Johnson giải thích: “Việc tinh tinh bị thiếu đi vi vệ tinh lặp này chẳng là gì so với sự thật là đột biến này chỉ phát triển ở người và tinh tinh lùn.”

Nhưng có sự phản đối mạnh mẽ quan niệm cho rằng mức căng thẳng tương đối thấp và tự do tìиɧ ɖu͙© có thể là đặc trưng của loài người trước đây. Helen Fisher thừa nhận những khía cạnh này trong đời sống tinh tinh lùn cũng như nhiều tương đồng khác đối với hành vi loài người, và thậm chí khôn khéo viện dẫn đến phân tích về bầy đàn nguyên thủy của Morgan:

Những sinh vật này di chuyển trong các bầy có đủ cả con đực, con cái và con non… Các cá thể đến và đi giữa các bầy, phụ thuộc vào nguồn cung thực phẩm, kết nối thành một cộng đồng gắn bó gồm vài chục thành viên. Đây là một bầy đàn nguyên thủy… Tìиɧ ɖu͙© gần như là trò tiêu khiển hằng ngày… Con cái giao phối gần như trong suốt chu kỳ kinh - kiểu giao phối giống với phụ nữ hơn bất cứ loài nào khác. Tinh tinh lùn giao phối để giảm bớt áp lực, kí©h thí©ɧ việc chia sẻ trong các bữa ăn, giảm bớt căng thẳng khi di chuyển và khẳng định lại tình bạn trong những cuộc tụ họp lo âu. “Làʍ t̠ìиɦ, không gây chiến” rõ ràng là chiến lược của tinh tinh lùn.

Fisher đặt một câu hỏi rõ ràng: “Tổ tiên chúng ta có giống vậy hay không?” Có vẻ như bà đang giúp chúng ta chuẩn bị sẵn sàng trước một câu trả lời chắc chắn khi viết rằng tinh tinh lùn “thể hiện nhiều thói quen tìиɧ ɖu͙© mà mọi người bộc lộ trên đường phố, trong quán bar, nhà hàng, và đằng sau cánh cửa căn hộ ở New York, Paris, Moscow và Hồng Kông.” “Trước khi giao cấu”, bà viết: “Tinh tinh lùn nhìn sâu vào mắt nhau.” Fisher còn quả quyết với độc giả rằng giống như loài người, tinh tinh lùn “bước đi tay trong tay, hôn tay và chân nhau, rồi ôm nhau cùng những nụ hôn dài, sâu, đẩy lưỡi kiểu Pháp”.

Cũng không tán đồng nhiều khía cạnh của mô tả chuẩn mực như chúng ta, dường như Fisher muốn sắp xếp lại lập luận của mình về sự xuất hiện của mối quan hệ kết đôi lâu dài và các khía cạnh khác của loài người trong thời tiền sử để phản ánh rõ hơn những hành vi bất thường này của cả tinh tinh lùn lẫn loài người. Nếu xét đến vai trò nổi bật trong hành vi của tinh tinh đối với mô tả chuẩn mực, thì làm sao chúng ta lại không tính cả tư liệu quan trọng không kém của tinh tinh lùn trong những ước đoán của mình về loài người thời tiền sử? Nên nhớ rằng, xét về mặt di truyền thì khoảng cách giữa chúng ta với tinh tinh và tinh tinh lùn là bằng nhau. Như Fisher nhận thấy, hành vi tìиɧ ɖu͙© của tinh tinh lùn giống với con người hơn bất cứ sinh vật nào khác trên Trái đất.

Nhưng Fisher đứng trước kết luận rõ ràng: lịch sử tìиɧ ɖu͙© loài người có thể giống như hiện tại của tinh tinh lùn, và buộc phải giải thích hành động quay ngoắt 180 độ của mình vào phút cuối bằng câu: “Tinh tinh lùn có đời sống tìиɧ ɖu͙© khá khác biệt so với các loài linh trưởng khác.” Không hẳn vậy, bởi con người - vốn có hành vi tìиɧ ɖu͙© giống như tinh tinh lùn, theo chính Fisher - là một loài linh trưởng. Bà nói tiếp: “Hoạt động tìиɧ ɖu͙© khác giới của tinh tinh lùn cũng xảy ra trong gần như cả kỳ kinh. Tinh tinh lùn cái trở lại với hành vi tìиɧ ɖu͙© trong vòng một năm sau sinh nở.” Những đặc tính độc đáo trong hoạt động tính dục của tinh tinh lùn đều giống với duy nhất một loài linh trưởng khác: Homo sapiens. Sau đó Fisher kết luận: “Do tinh tinh lùn thể hiện những thái cực tính dục linh trưởng này và theo dữ liệu sinh hóa cho thấy (chúng) mới xuất hiện khoảng hai triệu năm về trước, tôi thấy chúng không thích hợp làm kiểu mẫu cho cuộc sống vì điều này đã tồn tại ở loài người cách đây 20 triệu năm.” (Chúng tôi nhấn mạnh).

Đoạn này kỳ lạ ở một vài cấp độ. Sau khi viết chi tiết về việc hành vi tìиɧ ɖu͙© của tinh tinh lùn giống với loài người một cách đáng ngạc nhiên ra sao, Fisher thực hiện một cú lộn ngược hai vòng để kết luận rằng chúng không phù hợp làm kiểu mẫu cho tổ tiên chúng ta. Để biến vấn đề này thành khó hiểu hơn, bà dịch chuyển toàn bộ cuộc thảo luận này về 20 triệu năm trước cứ như đang nói về tổ tiên chung cuối cùng của tất cả các loài khỉ (nhưng đâu phải); khác với điểm chung của tinh tinh, tinh tinh lùn và con người, tất cả đều tách từ một tổ tiên chung cách đây chỉ năm triệu năm mà thôi. Trên thực tế, Fisher không nói đến những tổ tiên xa xôi như vậy. Trong The Anatomy of Love (tạm dịch: Giải phẫu tình yêu), cuốn sách của bà mà chúng ta đang trích dẫn, là một cuốn sách được viết rất hay, đưa ra công chúng công trình học thuật có tính đột phá của bà về “tiến hóa trong các chuỗi quan hệ kết đôi” ở người (không phải ở mọi loài linh trưởng) trong vòng vài triệu năm qua. Hơn nữa, hãy lưu ý đến việc Fisher nói rằng những đặc tính mà tinh tinh lùn giống với con người là “các thái cực của hoạt động tính dục linh trưởng”.

Sự đắn đo quá mức của Fisher về tính bừa bãi tiềm năng ở người một lần nữa xuất hiện trong mô tả của bà về việc tổ tiên chúng ta chuyển nơi sinh sống từ trên cây xuống đất: “Có lẽ các bà tổ nguyên thủy sống trên cây của chúng ta đã luôn dùng quan hệ tìиɧ ɖu͙© với nhiều đàn ông để giữ gìn bạn bè. Sau đó, khi tổ tiên chúng ta phải đi tới những đồng cỏ châu Phi cách đây khoảng bốn triệu năm và phát triển hành vi kết đôi để nuôi con, phụ nữ đã chuyển từ giao phối bừa bãi sang giao phối giấu giếm, gặt hái lợi ích từ các nguồn tài nguyên và cả nguồn gene tốt hơn hoặc đa dạng hơn.” Hãy để ý đến cách Fisher phỏng đoán sự xuất hiện của việc kết đôi bốn triệu năm trước như thế nào, mặc dù không có bất cứ bằng chứng khảo cổ học nào ủng hộ. Tiếp tục việc giải thích lòng vòng này, bà viết:

Vì tinh tinh lùn có vẻ thông minh nhất trong các loài khỉ, cũng như có nhiều đặc điểm thể chất khá giống với con người, và còn vì loài tinh tinh này giao cấu rất giỏi và thường xuyên, một số nhà nhân học phỏng đoán rằng tinh tinh lùn rất giống với người châu Phi, tổ tiên chung cuối cùng ở trên cây của chúng ta. Có lẽ tinh tinh lùn là những di tích sống về quá khứ của chúng ta. Nhưng chắc chắn là chúng biểu lộ một số khác biệt cơ bản trong hành vi tìиɧ ɖu͙©. Đơn cử, tinh tinh lùn không xây dựng mối quan hệ kết đôi lâu dài như con người. Trong trường hợp khác thì cũng không phải một cặp đôi mang tính vợ chồng cùng chăm sóc con cái. Con đực có quan tâm đến trẻ sơ sinh, nhưng chúng không sống cuộc đời một vợ một chồng. Việc của chúng là sinh hoạt bừa bãi.

Đến đây chúng ta có cách diễn đạt rõ ràng về quá trình Flintstone hóa, rằng nó bóp méo suy nghĩ của ngay cả những nhà lý luận nhiều thông tin nhất về nguồn gốc hành vi tìиɧ ɖu͙© loài người. Chúng ta chắc chắn là tiến sĩ Fisher sẽ thấy điều mà bà gọi là “khác biệt cơ bản” trong hành vi tìиɧ ɖu͙© lại không hề khác biệt khi bà xem đầy đủ những thông tin mà chúng tôi đề cập trong các chương sau. Chúng tôi sẽ chứng minh rằng hôn nhân vợ/chồng và chế độ tìиɧ ɖu͙© một đực một cái rất xa cách với những hành vi thông thường của con người, nghĩa là không như bà và nhiều người khác vẫn khẳng định. Chỉ vì tinh tinh lùn làm dấy lên những nghi ngờ về tính tự nhiên trong mối quan hệ kết đôi lâu dài ở người mà Fisher và hầu hết các chuyên gia khác kết luận rằng chúng không thể làm kiểu mẫu cho quá trình tiến hóa của loài người. Họ bắt đầu cho rằng chế độ tìиɧ ɖu͙© một vợ một chồng lâu dài tạo nên hạt nhân của cấu trúc gia đình là duy nhất, tự nhiên và vĩnh cửu của loài người, từ đó truy lại để tìm nguyên nhân. Ôi Yucatán!

Nhược điểm của “thuyết loài khỉ sát nhân” trong nguồn gốc loài người trở nên rõ ràng khi đối chiếu với điều mà bây giờ được gọi là hành vi tinh tinh lùn. Mặc dù vậy, de Waal vẫn xây dựng được một trường hợp thú vị, ngay cả khi không có những dữ liệu mà phải đến những năm 1970 mới sẵn có, và nhiều sai sót trong quan điểm về tinh tinh của Hobbes hẳn cuối cùng vẫn bị chỉ ra. Ông kêu gọi mọi người chú ý đến thực tế là thuyết này nhầm lẫn việc ăn thịt với tính hung hăng, cho rằng công cụ bắt nguồn từ vũ khí, và mô tả con cái là “những mục tiêu thụ động trong hành vi cạnh tranh của con đực”. Ông kêu gọi một kịch bản mới “thừa nhận và giải thích về thực tế rằng giữa các nhóm người hái lượm ngày nay không có những cuộc chiến được tổ chức, hay về xu hướng theo chủ nghĩa bình quân, và sự hào phóng thông tin cũng như nguồn tài nguyên giữa các bầy với nhau”*.

Bằng cách phản ánh những mối lo lắng hậu nông nghiệp gần đây vào quan điểm của mình về thời tiền sử, nhiều nhà lý luận đã Flintstone hóa phương pháp của mình thành ngõ cụt. Sự thôi thúc như một bản năng của người hiện đại nhằm kiểm soát hoạt động tính dục của phụ nữ có lẽ không thuộc về bản chất loài người. Nó giống một phản ứng trước những điều kiện kinh tế xã hội mang tính lịch sử cụ thể nhiều hơn - vốn là những điều kiện rất khác với những cơ sở mà giống loài chúng ta đã tiến hóa. Đây là chìa khóa để hiểu hoạt động tính dục trong thế giới hiện đại. De Waal đã đúng khi cho rằng hành vi mang tính thứ bậc, hiếu chiến và bảo vệ lãnh thổ này có nguồn gốc gần đây đối với giống loài chúng ta. Như chúng ta sẽ thấy, đó là sự thích nghi với thế giới cộng đồng sinh ra từ nông nghiệp.

Theo góc nhìn từ xa của chúng tôi, dường như Helen Fisher, Frans de Waal và một số người khác đã mạo hiểm bước lên cây cầu bắc qua dòng chảy cuồn cuộn những giả định vô căn cứ về hoạt động tính dục loài người - nhưng họ không dám bước qua. Đối với chúng tôi, có vẻ như họ đứng tại những thỏa hiệp căng thẳng với giải thích chi li nhất về dữ liệu mà họ cũng chỉ biết như mọi người. Đối mặt với một thực tế không thể bỏ qua là chắc chắn loài người tiền sử không sống theo mô hình một vợ một chồng, họ biện bạch cho hành vi “khác thường” - nhưng lại nhất quán một cách khó hiểu. Fisher giải thích thứ hiện tượng tan vỡ hôn nhân khắp nơi trên thế giới tiền sử bằng cách lập luận rằng quan hệ kết đôi mới tiến đến mức chỉ duy trì đến khi đứa trẻ sơ sinh lớn lên và có khả năng theo kịp nhóm hái lượm mà không cần sự hỗ trợ của bố. Về phần mình, de Waal lập luận rằng gia đình hạt nhân “về bản chất là rất con người” và mối quan hệ kết đôi là “chìa khóa dẫn đến mức hợp tác phi thường, đánh dấu giống loài chúng ta”. Rồi de Waal lại kết luận với giọng gợi ý là, “thành công của chúng ta trên phương diện giống loài gắn bó mật thiết với hành động từ bỏ lối sống của tinh tinh lùn và với việc kiểm soát chặt chẽ hơn những biểu lộ tìиɧ ɖu͙©”. “Từ bỏ ư?” Vì không thể từ bỏ những gì người ta vốn có, de Waal có vẻ đồng ý rằng tại một số thời điểm, hoạt động tính dục của loài người cực kỳ giống với hoạt động của lũ tinh tinh lùn bừa bãi, thoải mái - mặc dù chưa bao giờ ông nói rõ điều đó.

Bảng 2: So sánh hành vi tìиɧ ɖu͙©-xã hội và sự phát triển ở con sơ sinh của tinh tinh lùn, tinh tinh và con người.*
Phụ nữ và tinh tinh lùn cái giao cấu trong suốt kỳ kinh, cũng như trong suốt thời kỳ cho con bú và mang thai. Tinh tinh cái chỉ hoạt động tìиɧ ɖu͙© khoảng 25-40% theo chu kỳ.
Trẻ sơ sinh ở người và tinh tinh lùn phát triển chậm hơn nhiều so với con non của tinh tinh, bắt đầu chơi với nhau từ khoảng một tuổi rưỡi.
Giống con người, tinh tinh lùn cái lập tức trở về bầy sau khi sinh con và chỉ sau vài tháng là lại giao phối. Chúng rất ít sợ chuyện gϊếŧ con non, điều chưa bao giờ thấy ở tinh tinh lùn - dù sống tự do hay nuôi nhốt.
Tinh tinh lùn và con người thích nhiều tư thế giao cấu khác nhau, trong đó tinh tinh lùn cái thích tư thế bụng áp bụng (tư thế truyền giáo) hơn còn con đực thích quan hệ từ đằng sau hơn, trong khi tinh tinh gần như chỉ thích một tư thế từ đằng sau
Tinh tinh lùn và con người thường nhìn vào mắt nhau khi giao phối và hôn nhau say đắm. Tinh tinh thì không hề
Ở con người và tinh tinh lùn, âʍ ѵậŧ nằm giữa hai chân và hướng về phía trước cơ thể, chứ không hướng về sau như tinh tinh và các loài linh trưởng khác.
Chia sẻ thức ăn gắn chặt với hoạt động tìиɧ ɖu͙© ở người và tinh tinh lùn, nhưng ở tinh tinh thì không chặt chẽ.
Tính đa dạng lớn trong khả năng kết hợp tìиɧ ɖu͙© ở người và tinh tinh lùn; hoạt động đồng tính phổ biến ở cả hai loài, nhưng hiếm gặp ở tinh tinh.
Hành động cọ xát âʍ ѵậŧ-âʍ ѵậŧ (G-G) giữa các cá thể tinh tinh lùn cái có vẻ để khẳng định quan hệ “chị em”, xuất hiện ở tất cả các cộng đồng tinh tinh lùn được nghiên cứu (hoang dã và nuôi nhốt), nhưng hoàn toàn không có ở tinh tinh. Dữ liệu về hành động cọ xát G-G ở người đến nay vẫn chưa có. (Hãy chú ý: các nghiên cứu sinh tham vọng!)
Trong khi hoạt động tính dục ở tinh tinh và các loài linh trưởng khác chủ yếu là để sinh sản, tinh tinh lùn và con người lại sử dụng tìиɧ ɖu͙© cho mục đích giao tiếp (giảm căng thẳng, tạo quan hệ, giải quyết xung đột, giải trí, v.v…)