Chương 4

Tranh Tử không nghe nổi cái gì, đầu y đau buốt và thùy tâm co siết nặng nề đến không thở nổi, sau đó y nghe thấy vài tiếng kêu của A Nha, mí mắt nặng trĩu dần sụp xuống.

Lần tỉnh dậy tiếp theo là buổi chiều, tuyết rơi ngày một dày đặc, thứ mà Tranh Tử nhìn thấy đầu tiên là hai gương mặt xa lạ mà mình chưa bao giờ quen. Một kẻ mặt núng nính béo nộn như cái bánh bao thì gọi y là ơn công, còn một tên hòa thượng đầu trọc nhưng không ra dáng hòa thượng, trên cổ quấn cái áo cà sa rách thì gọi y là “tiểu huynh đệ xanh xao”, nhìn trên cơ bản đều là hai tên ngốc không có tính uy hϊếp. A Nha đậu trên cành cây cao đang thưởng thức một con cánh tiên, cũng không buồn nhìn tới chủ nhân mình. Tranh Từ lòm còm ngồi dậy tay huơ vội cây đào côn sau đó ném thẳng lên trên cành cây, chỉ nghe một tiếng “oác”, rồi hai thứ gì đó thi nhau rơi xuống bụi cây phía sau.

Y phủi tay.

Tên hòa thượng không ra dáng vẻ hòa thượng nhìn thứ vật thể vừa rơi xuống liền ca thán nói:

- Ây yo! Con thượng cổ điểu này không phải hạng thường đâu, trông nó săn chắc thế kia thì thịt hẳn là…à không…không…Nam Mô A Di Đà Phật!

A Nha nằm trong bùi cây đằng sau nghe thấy tiếng “thịt” thì “oác!” la một tiếng song vẫn chưa dậy nổi.

Tên béo nộn bên cạnh thì cười hề hề vừa đỡ Tranh Tử ngồi dậy vừa sốt sắng nói:

- Tiểu ơn công tỉnh rồi!

Vừa nói hắn vừa lấy tay phủi tuyết trên đầu Tranh Tử xuống. Tranh Tử đảo mắt một vòng, nhìn thấy xung quanh không xa có khoảng bốn năm bóng người nữa đang đốt lửa, bận bịu dựng trại, nấu nướng đồ ăn, mùi hương phưng phức khiến bụng y liền sôi lên cồn cào. Tên hòa thượng không ra dáng hòa thượng kia nghe thế liền sốt sắng ý tứ nói:

- Yến huynh, huynh xem vị tiểu huynh đệ xanh xao này hẳn đói bụng lắm rồi, hay là chúng ta mời hắn đến uống một ít canh thịt dê, huynh xem da dẻ hắn lạnh tới nổi đã trắng bợt ra rồi kia kìa…

- Nên mà nên mà, này các ngươi, canh thịt đã nấu xong chưa để ta còn thết đãi tiểu ơn công này!

- Dạ xong rồi thiếu gia! - Bên kia liền có người mau mắn đáp lại.

Tranh Tử mơ mơ hồ hồ hỏi:

- Ta…quen các người sao?



Gã béo bỗng nhiên nước mắt giàn giụa liền nói:

- Tiểu ơn công quên rồi sao? Chuyện là, ta trên đường lên núi bị con ác điểu kia nuốt vào bụng, cũng may nhờ có tiểu ơn công gϊếŧ hạ được nó để ta chui ra. Ba hồn bảy vía Yến Tri Phàm ta tới giờ cũng chưa hoàn lại, đời này coi như ta nợ ngươi một mạng, nhất định sẽ lấy hết khả năng để báo đáp hức hức ~...

- Hả? Ta…ta cứu huynh ư?

Gã béo quẹt nước mắt.

- Phải a~

Tranh Tử lờ mờ nhìn hai cái xác quái điểu trên mặt tuyết, cơ bản đã hiểu ra chuyện này. Y lại đảo mắt quanh một vòng tìm kiếm, không thấy Vu Tịch đâu, nhưng trên tay lại đang nắm cái chuông nhỏ mà vốn dĩ đính trên đầu trượng của người kia. Tên hòa thượng không ra dáng hòa thượng nhìn cái chuông thật lâu sau đó thoạt như không để ý tới nữa, nói:

- Nào nào, trời lạnh thật đó, bây giờ mà có chén canh nóng uống vào thì còn gì bằng Yến huynh nhỉ?!

- Phải phải a~ - Người kia gật gù sau đó ra lệnh cho kẻ hầu người hạ mang canh dê đưa đến.

Ba người ngồi trước một đống lửa, Tranh Tử nhìn gã hòa thượng không ra dáng hòa thượng kia đang húp canh dê sùm sụp bát này qua bát khác không nhịn được hỏi:

- Người tu hành không phải đều ăn chay à?

Gã thầy tu mặt không ngẩn khỏi bát canh, chống chế nói:

- Phật tại tâm, chỉ cần lòng hướng về phật pháp thì không sợ phá giới.

Tranh Tử căm lặng, không buồn hỏi gì thêm nữa.



Qua một hồi nói chuyện mới biết, gã béo tên là Yến Tri Phàm, là công tử của một nhà phú hộ giàu nứt vách đổ tường ở Đô Thành, nhưng vì xuất thân gia đình không học cao, không ai đỗ nổi một chức quan, nhưng gia phụ lại trọng danh tiếng thể diện thế là bắt đứa con trai út là hắn phải lên núi cầu sư học đạo để sau này có người hỏi thì có thể ngẩn mặt nói trong nhà có đứa con là một đạo giả ở Lũng Bạch Môn, nghe kêu như chuông chứ chả đùa. Hắn ục ịch lăn lên nơi này trên đường đem theo hơn hai mươi tùy tùng nhưng tới được đây tính luôn hắn chỉ còn lại đúng sáu người, còn lại đều bị linh trùng, quái thú, quái vật, ma quỷ ăn thịt, kết bạn đồng hành với tên thầy tu không ra dáng thầy tu kia gọi là Thường Phiêu, đương nhiên là một hòa thượng nửa vời vì phá giới mà bị phật môn cấm cửa, vào thế bí mới từ cửa phật sang nương nhờ cửa đạo. Hai cái con người này dường như chẳng có một chí hướng chung gì để kết bạn đồng hành ngoài việc không tìm được ai khác nữa, gàn dở và ễnh ương hệt như nhau.

Trong lúc bọn họ đang ngồi bàn về chuyện mấy con thỏ tuyết vừa săn được ngày mai sẽ làm món gì ăn ngon thì Tranh Tử ở đây đã cột xong cái chuông nhỏ vào đầu đào côn, âm thanh lách cách vang lên, A Nha nghe thấy liền bay tới đậu trên đầu đào côn mổ mấy cái vào cái chuông kia. Tranh Tử vẫn không hiểu vì sao Vu Tịch để lại cái chuông này rồi bỏ đi không nói câu nào, và còn câu hỏi trước đó của hắn là có ý gì?

Tranh Tử nhìn vào ánh lửa thật mờ, mắt của y còn tệ hơn cả ngày trước, bây giờ chắc phải chống gậy dò dẫm từng bước mà đi. A Nha kêu oan oác vài tiếng hình như đang an ủi và xin lỗi, y nhẹ mỉm cười lắc đầu ý bảo không sao đâu, sau đó tiện tay túm cổ nó quăng cho Yến Tri Phàm và Thường Phiêu.

- Con quạ này ăn ngon hơn thịt thỏ nhiều, tùy hai người xử trí!

Tật Phong trấn nằm dưới đạo môn Lũng Bạch, muốn tới cổng môn phải đi qua cái trấn nhỏ này. Ở đây mùa xuân thì non nước hữu tình, mùa đông thì lạnh lẽo nhưng nên thơ hữu mộng, liễu rũ chạm mặt hồ thở ra hơi băng lạnh toát, thuyền bè tấp nập, nhà dân lúp xúp, người người áo ấm cơm no. Trước đây không đông đúc như thế này, dù sao đạo thế đã kém nhiều so với thời Vị Vương thứ 6, hơn trăm năm trước, người ta bây giờ nếu có khả năng về đạo chú phù thuật thì chủ động xung quân, làm việc cho triều đình để có chức tước và bổng lộc cao chứ không ai mơ mộng bước vào cổng đạo để thành đạo giả, thành tiên nhân như khi xưa nữa, tất cả cho rằng đều là chuyện viễn vông hoặc do số người thành công trường sinh bất lão chỉ đếm trên đầu ngón tay, thế đạo suy yếu nhưng duy chỉ có một số nơi là phồn thịnh và Lũng Bạch Môn là một trong những ngoại lệ. Ở đây phồn thịnh tới mức khiến Vị Vương thứ 8 hiện tại Tề Mộc Tát Đạt Nhĩ phải nóng mắt, dù sao tam giới đã rạch ròi, đạo, nhân, ma. Ma giới suốt mấy trăm năm an phận không động tịnh, chỉ còn nhân gian và đạo giới đôi bên rục rịch, đạo giới lại xuất phát từ nhân, phát triển quá thịnh đâm ra chẳng khác gì tự tách bạch đất đai và con người ra khỏi cai trị của vương quyền. Suốt trăm năm qua nhiều câu chuyện truyền tai được thêu dệt nhằm hạ bệ đạo giới, còn có trận xung đột giữa Tề Mộc Tát Đạt Nhĩ lúc đó chưa lên ngôi Vị Vương, vẫn còn là một vương gia ngang ngược chốn hoàng cung đối với lão môn chủ Thôi Tự của Lũng Bạch Môn, dẫn đến trận chiến “Tam Dạ Sưu Sát” suốt bốn ngày ba đêm hồi ba mươi năm về trước mà cuối cùng quân binh của gã vương gia kia không thể làm gì khác mà chủ động rút lui. Lũng Bạch Môn vẫn tồn tại chưa một ngày yếu thế có thể chứng tỏ phần nào sự cường thịnh và mạnh mẽ của đạo môn này ngàn năm tuổi này, khiến ai nấy có cơ hội bước vào cổng môn đều cho đó là một loại phước đức trời ban.

Trấn nhỏ vào những ngày này đúng là đông đúc hơn thường lệ, Lũng Bạch Môn sắp tới sẽ tổ chức Đại Hội giao lưu đạo pháp năm năm một lần. Những đạo giả có tiếng tăm hoặc vô danh, nhân tài trẻ, lão giả, danh môn lớn nhỏ gần xa đều đổ xô về háo hức tham gia. Lũng Bạch Môn là cái nôi sinh ra toàn đạo giả mạnh và có tiếng tăm nhất nhì Lệnh Tây Yến Quốc, nếu được so tài cùng thì âu cũng là một loại vinh dự năm năm có một.

Đứng ở Tật Phong trấn có thể nhìn lên phía xa mây mù trùng điệp, tầng tầng, tháp tháp kiến trúc vừa dày đặc vừa đồ sộ cổ kính đặc trưng của Lũng Bạch Môn, vừa uy nghiêm vừa toát ra hơi thở của tiên cảnh chốn thế gian, thác nước đổ ầm ầm, tiếng chuông văng vẳng mang âm thanh linh thiêng đến cuộc sống đời thường ở Tật Phong trấn, khiến từng cành cây ngọn cở ở đây đều như có tiên khí, mặc cho thời tiết có khắc nghiệt nhưng cây cỏ vẫn xanh tươi, hoa lá xum xuê đủ màu sắc.

Nhưng trước mắt Tranh Tử bấy giờ tất cả chỉ gọn hỏn trong mảng mơ hồ nhòe nhạt. Y thờ dài một cái, kéo mũ trùm qua đầu để không ai nhìn ra đôi mắt đυ.c dọa ngưới của mình, A Nha đang đậu trên đầu đào côn, chuông nhỏ lách cách theo từng bước chân dò dẫm của người thiếu niên bước qua cánh cổng đề ba chữ thật to thật và hiên ngang: Tật Phong Trấn.

Phía sau có âm thanh gọi réo rắc không ngừng.

- Tiểu ơn công, ngươi đi chậm một chút kẻo té bây giờ! Đợi ta với, ây yo…mệt quá…

- Tiểu huynh đệ xanh xao, ngươi có ngửi được mùi bánh thịt rán không, thơm thật…ta đoán chắc chỉ gần đây thôi, tay nghề này hẳn là từ một cao thủ ẩn danh, ngươi thường sao có thể rán bánh thịt vừa thơm vừa ngọt lòng người như thế chứ! Ay yo! Sao ta lại vậy nữa rồi, ta thật không nên, không nên nói thế A Di Đà Phật!

Tiếng gọi càng gần thì bước chân của Tranh Tử càng nhanh, y chẳng hiểu sao tự dưng lại dính phải hai kẻ phiền phức này. Được vài ba bước, Tranh Tử vô ý va vào người nào đó đi hướng ngược lại, đào côn rơi xuống đất, A Nha quác một tiếng giũ cánh bay lên đậu trên vai y. Trên vai kẻ đối diện cũng có một con linh điểu màu vàng ánh kim lấp lánh, từng sợi lông vũ như được đính một lớp vàng, quý như cổ vật hoàng gia. Nó kêu lên một tiếng thánh thoát, liếc nhìn A Nha như than ôi…sao lại có một con quạ màu trắng kì lạ, đơn điệu, kém sắc đến mức nó không thèm để mắt tới nữa.

A Nha nhìn lại nó bằng đôi mắt đỏ tròn vo vô cảm.

- Mắt ngươi để trên trán à?