Chương 25: Bốn căn phòng

-

Án Sát Sứ như đã biết, ngoài cái đầu có khả năng tổng hợp và phân tích vô cùng nhanh nhạy, tất cả thủ thuật khác đều bao hàm trong Án Sát Khẩu Quyết gồm hai mươi ba điều, được truyền thừa cho thế hệ sau từ lúc còn nhỏ. Án Sát Khẩu Quyết được chia làm năm nhóm, từ đó có thể bao quát tất thảy một vụ án. Năm nhóm đó là: hiện trường; thủ thuật; nghi phạm; khẩu cung; một số án lớn mới có cái thứ năm, đó gọi là “Thiên La Địa Võng”.

Về phần hiện trường, năm Quyết lần lượt là: Quán, Thức, Thấu, Trực, Thị. Hiện trường là nơi án xảy ra, điều tra từ hiện trường là bước đầu tiên và cũng là quan trọng nhất, thành hay bại có thể nói từ đó mà nên cũng không phải nói quá. Án Sát chia làm năm Quyết tùy thuộc vào từng trường hợp. Quán dùng khi hiện trường bình thường, đầy đủ thi thể, hung khí hợp lệ; dùng Quán để xâu chuỗi sự việc xảy đến, đường đi nước bước của hung thủ. Kỳ thực đây là Quyết rất dễ, vì án như vậy hết sức tầm thường, Án Sát ít khi phải tốn công sức động vào. Thức là Quyết dùng khi hiện trường có khiếm khuyết một trong những thứ: dấu tích, hung khí, thi thể; Quyết này đòi hỏi Án Sát hình dung ra thứ còn thiếu, từ đó chỉ ra được đặc điểm của thứ ấy, nhờ vậy mà vụ án không lâm vào bế tắc. Thấu là Quyết Án Sát rất hay dùng. Quyết Thấu là khi gặp hiện trường giả, đồng nghĩa với tất cả những thứ bày ra ở đó đều có sự sắp đặt, Quyết Thức giúp Án Sát phân định, tìm ra điểm bất hợp lý, từ đó suy ra nơi là hiện trường gốc. Trực là Quyết dùng để phân tích hung khí, dấu vết nếu nó là vật vô tri vô giác; Thị là Quyết dùng để phân tích dấu tích, hung khi nếu nó là vật sống.

Về nhận định thủ thuật, cách thức gây án cũng có năm Quyết, là: Tưởng, Định, Suy, Di, Cảo. Tưởng dùng khi án có hung khí, hung khí khớp với thương tích gây tử vong; Định dùng khi tại hiện trường không có hung khí, Án Sát phải hiểu được nguyên lý và cơ cấu để hung khí đó có thể tác động đến nạn nhân; Suy dùng khi chết do nội thương; Di tức là khi chết do thương tích rối loạn bên ngoài; Cảo khi chết không rõ nguyên nhân.

Về khoanh vùng nghi phạm: Luận, Đề, Kết, Long, Bác. Luận dùng khi hiện trường và hung khí đều rõ ràng, tính khẳng định cao; Đề dùng khi một trong ba yếu tố là hung khí, tử thi và hiện trường không rõ ràng; Kết tương tự nhưng khó hơn, khi có hai đến ba yếu tố không rõ ràng, mức tin cậy không cao; Long dùng khi có thế lực dàn dựng, để nhiều người thế mạng ra nhận tội; Bác dùng khi án lâm vào đường cùng khi không tìm được nghi phạm hoặc nghi phạm là người nơi xa đến, gây án xong lập tức bỏ trốn, thông qua Quyết Bác này sẽ lần ra manh mối để truy bắt.

Về lấy lời khai, lần lượt là: Khiển, Tập, Đồng, Vấn. Khiển là khiến người khác không nghi ngờ về thân phận của mình, giả dụ như mình vừa từ xa tới thì đã có án mạng, muốn vào hiện trường để xem xét, đâu thể nói một hai câu là người ta cho vào, phải dùng Quyết Khiển để khiến người khác nghĩ rằng bản thân mình là người có liên quan. Quyết này Cửu dùng mãi. Tập là khi đã bắt được nghi phạm, làm nghi phạm nghĩ rằng ta và hắn có chung lợi ích ở điểm nào đó, nôm na là chiếm lấy lòng tin một cách thụ động mà thôi. Đồng là khi nghi phạm nói dối, chối tội quanh co, hoặc nhận tội thay. Vấn là Quyết ít được dùng nhất, vì nó chính là dùng nhục hình tra tấn, dĩ nhiên không giống như người thường, Án Sát chủ yếu tra tấn tinh thần, khiến nghi phạm hoặc bị thôi miên, hoặc gần như sợ hãi đến hóa điên mà phải khai nhận.

Về Thiên La Địa Võng, đây dùng cho những án nghiêm trọng, xác mất tích, thủ phạm là một tập thể, che giấu thân phận hoàn hảo hoặc như thi thể lâu ngày bị phân hủy, bị cháy, bị thú hoang cắn mất nhiều bộ phận. Thiên La Địa Võng có bốn Quyết, dùng để tạo phục dựng lại thi thể, gài bẫy nghi phạm xuất đầu lộ diện. Bốn Quyết là: Thiên, Địa, Nhập, Khứ.

Án Sát Khẩu Quyết như trên chỉ mới là nghe tên biết mặt, mỗi một Quyết lại gồm những bài học, những ví dụ minh họa, kể ra lại vô cùng dài dòng phức tạp, không có dòng dõi Án Sát, e khó mà thấu thị được. Lại nói, tuy chia làm năm nhóm có vẻ rạch ròi, kỳ thực người sử dụng lại phải vô cùng uyển chuyển linh hoạt, kết hợp các Quyết một cách nhuần nhuyễn với nhau mới có thể phá án được nhanh chóng! Và hơn hết, không phải lúc nào dùng đều nói ra miệng như đọc thần chú.

.

.

.

.

Căn nhà gỗ nơi Thầy Bằng bị gϊếŧ nằm trong khu rừng, dày đặc những rặng dừa nước, cách nhà Thầy khoảng năm trăm mét, cách đường mòn chính của làng khoảng năm mươi mét. Cửu đứng nhìn hiện trường và đám người bát nháo xung quanh khá lâu, bụng nghĩ phương hướng tiếp cận, thời điểm hiện tại Cửu cần phải giữ thân phận mình kín nhất có thể. Lý do bắt nguồn từ những xung đột trong nội bộ Chân Giới thì không cần phải nói đi nói lại hoài cho mệt. Đám đông giờ đã đứng thành một vòng tròn bao quanh hiện trường, hai tên lính khố xanh phải khó khăn lắm mới giữ cho nó không bị xáo trộn, từ phía bên ngoài chợt vang lên tiếng còi, là tên cai trưởng, hắn dắt thêm năm sáu tên lính khác, đang mở đường vào trong. Cửu thấy đây là cơ hội tốt liền bày mưu thu hút sự chú ý của hắn.

Cửu đằng hắng một cái rồi la lên oan oan: “Trời đất ơi, Thầy Bằng, tối qua con còn gặp Thầy, nói cười niềm nở, ăn cơm chung mâm mà sao lại ra nông nổi này Thầy ơi! Con bảo Thầy đừng có đi vào lối đó mà Thầy không nghe con. Trời ơi Thầy ơi!”

Tất cả mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía Cửu, trong đó có những người đã gặp Cửu ở quán nước và tên cai trưởng. Những người ở quán nước thì xì xầm với nhau thì ra là người hồi sáng, chắc thấy có lỗi nên đem quà tới biếu Thầy đây mà; tên cai trưởng ra lệnh cho đám lính phong tỏa hiện trường, xong lật đật chạy tới lôi Cửu vào trong, giọng hắn khá hách dịch nhưng không có ác ý, không phải dạng người xấu: “Cậu thanh niên, cậu là người gặp Thầy Bằng cuối cùng đúng không, trước đó có thấy dấu hiệu gì đáng ngờ không?”

Cửu đưa mắt nhìn một vòng rồi mới khẽ lấy kim bài ra, tên cai trưởng vừa thấy kim bài, mồm đã định la oai oải: “Án Sát Ti…”, nhưng chưa nói hết câu đã bị Cửu bịt miệng lại, y đưa tay trỏ lên môi ra dấu nói khẽ thôi. Tên cai trưởng thấy vậy bèn lí nhí: “Án Sát Tiên Sinh! Có ngài ở đây thì tốt quá rồi. Để tôi ra lệnh cho mấy anh em, phụ giúp ngài được gì thì phụ!”

Cửu lắc đầu bảo: “Không được. Tôi cần phải giữ bí mật thân phận của mình, chú cho tôi vào xem xét hiện trường một lúc rồi tôi đi ngay. Hi vọng chú hiểu?”

Tên cai trưởng thừa biết Cửu có lý do nên mới làm vậy bèn hỏi phải nói với đám lính như thế nào mới đặng, Cửu suy nghĩ vài giây rồi bảo hắn cứ cho lính làm nhiệm vụ, giải tán người dân trước, sau đó thì giới thiệu với chúng Cửu là học việc của Chánh Tổng, có việc đi ngang đây, thấy vụ án nên phải vào xem xét để sau này Chánh Tổng có hỏi cũng không bị gọi là tắc trách. Tên cai trưởng nghe xong thì gật đầu lia lịa, còn khen Cửu hảo kiến, đoạn làm y hệt như lời Cửu bảo. Nửa giờ sau, người dân hiếu kỳ đã bị đuổi về gần hết, lúc này, tên cai trưởng mới dẫn Cửu vào trong, giới thiệu y với đám lính, xong rồi thì kéo ra ngoài hết, để Cửu một mình ở hiện trường. Trước đây Cửu cứ thấy Độ Sẹo vào đồn Pháp, trở ra là được xem như người có chức có quyền, thì ra là một loại năng lực của kim lệnh. Nếu đó là chuyện của Chân Giới, hoặc có liên quan đến Chân Giới, ý chí của Cửu có thể áp lên người thường, nghĩ lại cách thức hệt như khi Cửu tuyên án thủ phạm mà thôi, vì trước nay có vụ nào mà Cửu không nghe theo kim bài, mà kim bài vốn là vật của Chân Giới, nên vụ nào có mùi của Chân Giới, kim bài đều rơi ra. Nếu nói vậy, vụ án nơi làng quê này liệu liên quan với Chân Giới ra sao?

Cảnh tượng đầu tiên ập vào mắt Cửu chính là sự rối loạn của thông tin, tất nhiên đám lính không phải là người gây nên việc này. Cửu nghĩ bụng, phải làm thật chậm nếu không muốn tự đưa mình ngõ cụt, y nhắm bức tường mà bắt đầu. Trong căn nhà gỗ này, như đã nói, bốn bức tường, trên trần, dưới sàn đều được lót một lớp bông gòn rất dày, có khi phải đến nửa mét, bước đi hết sức mềm mại. Xác Thầy Bằng với bao tử trương lên, thực quản căng phồng, đôi mắt trợn ngược, cửa miệng mở toang hoác nằm cạnh bức tường bên trái. Trên bức tường có dấu hiệu của nhiều vết va đập, lớp bông gòn bị ngoại lực tác động đẩy mạnh vào trong, để lại một lỗ hõm. Cửu ướm tay lên những lỗ hõm này rồi đặt thử lên đầu của Thầy Bằng, thấy kích thước khá khớp, Thầy Bằng đập đầu lên tường, nhưng tại sao?

Cửu khịt mũi, bặm môi, suy nghĩ hết vài phút, không hiểu sao những kiến thức và kinh nghiệm học được từ trước đến giờ lại ập về cùng một lúc như vậy. Chợt một thứ đập vào mắt Cửu, là những khẩu súng hỏa mai. Có bốn khẩu tất cả, ba khẩu nằm cạnh bức tường bên phải, một khẩu nằm cạnh xác của Thầy Bằng. Cửu thận trọng xem xét từng khẩu súng, thấy ba khẩu nằm bên kia có mùi thuốc súng khá nặng, khẩu bên xác Thầy Bằng thì không, bên trong cũng không có đạn, khẩu này đã không khai hỏa, ít nhất là thời điểm tối qua. Tuy vậy, nó bị hư hại, dù chỉ là biến dạng nhẹ thôi nhưng chi tiết này cũng không tài nào giải thích được, bán súng có những vết cắn, nòng súng hơi cong sang một bên.

Cửu tiến đến chỗ xác chết, chân Thầy Bằng bị trói bằng một sợi dây thừng rắn chắc, cổ chân đã có những vết bầm tím, có vẻ như Thầy Bằng đã cố trốn thoát vài lần. Sợi dây vì vậy mà cũng bị hư hại khá nặng, những thớ dây thừng có dấu hiệu bong ra, Cửu nhìn sang chỗ móng tay Thầy Bằng thì thấy bên trong còn dính những thớ dây thừng này, từ bên trong máu rỉ ra, đông lại, hóa thành màu đen kịt. Chuyện con người có thể nhét vào bụng đến nổi quá tải mà chết thì Cửu chỉ nghe qua lời kể chứ chưa gặp, nhưng còn một điều khó hiểu nữa, là máu. Xung quanh xác của Thầy Bằng không hề có máu, nhưng cách đó vài mét, chỗ gần gốc phòng thì máu đã thấm xuống lớp bông gòn phía dưới, máu chảy ra khá nhiều, nhưng là của ai? Trên người Thầy Bằng không hề có vết thương nào lớn tới nỗi có thể chảy ra lượng máu như vậy.

Tất cả những chi tiết kể trên không phải là thứ khiến Cửu phải bận tâm nhất, từ khi bước vào phòng Cửu đã cảm nhận được một chuyện gì đó rất không đúng, nhưng bụng bảo dạ cứ kiểm tra chứng cứ của hiện trường. Mọi thứ dần ổn định, Cửu mới có cơ hội đối diện, từ nãy đến giờ thứ đó cứ lượn lờ xung quanh như đang trêu tức Cửu. Ở trung tâm của bức tường chính giữa có ghim một tờ giấy viết chữ Hán. Cửu bước đi về phía đó thật chậm, quả nhiên, như Cửu nghĩ, trên tờ giấy đó đề Án Sát Quan Hạch Tôi, bên dưới là tội lỗi của Thầy Bằng được kể ra hết sức qua loa, cuối cùng là dòng chữ lạnh lùng tuyên cái chết dành cho Thầy.

Cửu biết cả Ái Tri và Độ Sẹo đều nói rằng y là Án Sát duy nhất, cha y ngày xưa cũng khẳng định điều tương tự, nhưng tờ giấy này lại nói lên điều ngược lại. Mọi thứ đều y hệt như những lần hạch tội trước của Cửu nên cũng phải nói y có chút lung lay, liệu trên thế gian còn có một vị Án Sát Tiên Sinh khác? Nhưng nói đi không quên nói lại, nếu là Án Sát thì không thể nào gϊếŧ người theo kiểu như thế này, hiện trường để lại thì hết sức lung tung, bừa bãi, và hơn hết, sau khi hạch tội tuyệt đối không để lại trong lòng người dân những khúc mắc. Cửu nhớ lại, lúc nãy tên cai trưởng có nói việc phá cửa để vào trong rất khó, nếu nói Thầy Bằng tự xây nhà cho bản thân rồi ăn gòn tự sát thì có quá nhiều điểm bất hợp lý, vả lại trong Án Sát Thập Hình làm gì tồn tại hình phạt nào như vậy! Cửu đành nhét tờ giấy vào túi, số lượng manh mối hiện giờ không đủ để đi tới kết luận.

Cửu nhìn hiện trường thêm một lượt, không muốn bỏ sót thêm bất kỳ chứng cứ nào, đoạn quay lưng đi thẳng ra cửa, tên cai trưởng đã đứng đợi y tự lúc nào, đám lính khố xanh thì hắn đuổi ra đường chính hết rồi. Vừa thấy Cửu hắn liền nhìn dáo dát xung quanh rồi thều thào: “Sao rồi tiên sinh? Đã tìm ra hung thủ chưa?”

Cửu cũng chẳng có gì để giấu, đem thông tin nãy giờ thu thập được kể cho tên cai trưởng, hắn nghe xong thì chụp cả hai tay lêи đỉиɦ đầu, mắt trợn lên, ra điệu bộ suy nghĩ sâu lắm. Tất nhiên hắn chẳng nghĩ ra được gì cả, bèn kiếm chuyện đánh trống lảng: “Tiên sinh à, hiện trường ở đây chắc xong rồi hả, tôi cho người dọn dẹp nghen?”

Cửu gật đầu bảo: “Nếu còn thủ tục gì thì chú cứ làm, nếu có chuyện phát sinh Cửu tôi sẽ tự thân tới gặp. Cũng nên đem xác về cho gia đình mai táng.”

Lúc này, tên cai trưởng mới mấp máy: “Tiên sinh… tiên sinh chưa nghe sao? Vợ con Thầy Bằng mất tích rồi, người dân ở đây sau khi nghe tin Thầy chết thì đã chạy tới báo, nhưng vào nhà thì thấy trống không.”

“Còn đồ đạc trong nhà?”

“Chèn ơi, tiên sinh nghĩ là có người tới bắt chứ gì? Không không, mọi thứ đều hết sức bình thường, giống như ba người bọn họ… bốc hơi vậy đó.”

Cửu nhăn mặt, đứng đây nói chuyện với tên cai trưởng này có khi một hồi hắn lại lái sang chuyện ma quỷ hiện hình, e rằng sẽ làm mọi chuyện rối càng rối thêm. Nghĩ vậy Cửu bèn bảo chuyện đâu còn có đó, cứ để Cửu đi xem xét, chớ nên loan tin đồn bậy bạ làm rối trí người dân. Tên cai trưởng nghe dặn dò thì gật đầu lia lịa, chào Cửu hết sức cung kính lúc y rời đi.

Không cần nói cũng biết, thông tin Cửu thu thập được là không đủ, trong đầu Cửu chỉ nhen nhóm kết nối được một số dữ liệu nhưng chúng vẫn hết sức rời rạc. Cửu nghĩ phen này y phải dùng tới “tuyệt chiêu” của Án Sát là kiếm chỗ đông người mà ngồi nghe ngóng, uẩn khúc phía sau vụ án này tuyệt đối không phải đơn giản, muốn tìm người để nghi ngờ còn không có. Mà chuyện đó là đương nhiên, có người bị gϊếŧ một cách bí ẩn, muốn khoanh vùng đâu thể dựa vào những suy luận không có cơ sở, thiết nghĩ nếu mỗi lần như vậy mà chỉ cần suy luận vài cái là lòi ra ba bốn nghi phạm một cách dễ dàng thì thế gian không cần tới Án Sát làm gì.

Vẫn là quán nước cũ bên đường nhưng không khí đã trở nên ảm đạm hơn rất nhiều, lúc Cửu bước vào vẫn còn nghe tiếng khóc thút thít của chị chủ quán. Những người Cửu thấy lúc sáng đi loanh quanh hiện trường với ánh mắt hiếu kỳ, thì nay ngồi tụ thành từng bàn mà thảo luận. Cửu quan sát, y nhận thấy chắc chỉ khoảng năm đến sáu người là buồn thật, những người còn lại đã quá chú đến sự bí ẩn của vụ án. Nết họ là vậy, âu cũng không trách được, trong lòng có thể còn chút kính trọng nhưng chuyện giật gân, nóng hổi thì vẫn ngồi nói chuyện hết sức xôn xao. Dù sao thì chuyện này cũng có lợi cho Cửu, dự định của Cửu cũng nhờ vậy mà có thể thực hiện được.

Thông tin nghe thì có vẻ nhiều nhưng chỉ loanh quanh không đầu không đuôi, việc chấp nối chúng lại khiến Cửu tốn khá nhiều công sức, cảm thấy não trạng giảm đi phân nửa, đơn giản vì đa số chúng đều là thông tin đầu đường xó chợ, những lời đồn thổi không có căn cứ. Theo như những gì Cửu thu thập được, căn bản có thể sàng lọc được hai người trong làng này cảm thấy vui mừng vì cái chết của Thầy Bằng. Người thứ nhất là một cô gái tên Ngọc Lan, ngày xưa từng làm người ở cho nhà Thầy Bằng, sau đó xảy ra hiềm khích khá lớn, cô ta bị cho là người vu oan cho Thầy Bằng tội sàm sỡ. Người thứ hai là một giáo viên khác tên Lộc, ông ta dính vào một vụ lùm xùm trong trường, bị Thầy Bằng tố cáo nên đâm ra tư thù, ngoài ra, ông ta còn là người để ý đến Lê Thị, vợ của Thầy Bằng. Tất nhiên, tất cả mớ thông tin trên đều từ một buổi ngồi của Cửu mà ra, xuất phát từ cửa miệng của người dân bản địa.

Cửu suy nghĩ một hồi thì quyết định đến gặp Ngọc Lan trước, việc này tất nhiên phải nhờ đến tên cai trưởng, Cửu hơi ngán ngẩm nhưng không còn cách nào khác. Tên cai trưởng dẫn Cửu ra gần đến bìa trong của ngôi làng, ở đó có một ngôi miếu, Ngọc Lan mồ côi cha mẹ, từ sau vụ lùm xùm ở nhà Thầy Bằng thì chuyển hẳn lên đây sống. Hằng ngày Ngọc Lan đi bắt cá về hương khói cho miếu, cô cũng kiêm luôn việc quét dọn, vệ sinh trong khuôn viên nên người dân cũng trả một khoảng tiền nhỏ. Ngôi miếu được dựng gần mé sông, phía sau mọc lên một cây còng khá lớn, mát cả một vùng, con sông này rộng khoảng mười mấy mét, gió sông thổi lên làm Cửu cảm thấy hết sức sảng khoái, thiết nghĩ nếu không có vụ án lớn, y có thể ngồi đây kéo vài ngụm thuốc.

Tên cai trưởng vừa dẫn Cửu tới nơi thì cũng là lúc một cô gái đi ra từ bên trong, chính là Ngọc Lan, tên cai trưởng giới thiệu Cửu cho cô rồi cũng xin kiếu. Ngọc Lan là một cô gái nhỏ người nhưng xinh đẹp, cằm cô thon dài, đôi mắt to, tròng mắt đen tuyền, lung linh như mặt hồ, tuy khuôn mặt cô lấm lem bụi nhưng vẫn rất sáng sủa, ngoài ra, lưng Ngọc Lan còn đeo một bộ cung tên. Lúc tên cai trưởng đi rồi cô mới dám lên tiếng, giọng nói nhỏ nhẹ như rót mật vào tai: “Anh trai, em có nghe chuyện Thầy Bằng rồi, biết thế nào cũng có người đến tìm, không ngờ lại là tập sự của Chánh Tổng. Nhưng giờ không phải lúc, anh trai chờ em có được không?”

“Tại sao? Cô có chuyện gì cần làm?”

“Em phải đi “săn” vài con cá, sắp đến giờ cúng rồi, không đi liền không kịp.”

“Săn cá?” Cửu đó giờ chỉ nghe qua chài cá, đặt lờ, hoặc cấm câu chứ làm gì có ai đi săn cá? Mà chẳng lẽ là săn bằng bộ cung tên cô ta đang đeo hay sao? Nghĩ đến đó, Cửu cũng nói thẳng: “Tôi cũng không có thời gian đợi, tôi đi với cô, chúng ta sẽ vừa làm vừa nói chuyện.”

Ngọc Lan cười lớn: “Thật không anh trai? Anh trai dân thành thị, ngồi xuồng được không mà đòi theo?”

Cửu không nói không rằng, bước xuống sàn nước rồi phốc một cái đã nhảy lên xuồng tam bản hết sức gọn gàng, Ngọc Lan thấy vậy cũng chỉ trề môi, nhún vai, gỡ dây buộc rồi bắt đầu chống sào. Xuồng đi chưa được bao, Cửu ngồi trên mũi quay về sau nói: “Cô chắc cũng là người thông minh, lúc nãy cô nói cô biết thế nào cũng có người đến tìm, vậy cô cũng biết tình cảnh của mình hiện giờ đúng chứ?”

“Anh trai nhớ rõ nhỉ. Đúng rồi, ngày xưa em làm công cho gia đình đó mà, chuyện Thầy Bằng với em ai cũng biết, em bị nghi cũng phải.”

“Vây tôi hỏi cô vài câu…”

Cửu chưa nói hết câu đã bị Ngọc Lan đưa tay lên ngăn lại, cô đứng chống một chân lên mạn xuồng, ánh mắt cô đang tập trung nhìn vào một khoảng nước phía trước, cánh tay cô tháo cung rất nhẹ nhàng, tay còn lại rút mũi tên rồi bằng một động tác kéo dây dứt khoát, mũi tên xé gió bay vèo về phía trước. Trong lúc Cửu còn chưa biết phải suy nghĩ gì cho đúng thì đã thấy Ngọc Lan kéo sợi dây, thì ra đuôi mũi tên được buộc vào vỏ đựng tên, “phắt”, Ngọc Lan kéo lên một con cá to đùng, Cửu chỉ biết đứng ngỡ ngàng, thực là một cảnh tượng Cửu chưa từng được thấy lần nào trong đời, cả giống cá Cửu cũng không biết tên, chỉ thấy nó khá giống với loài cá hú, vì ngại nên Cửu không hỏi. Ngọc Lan thấy phản ứng của Cửu liền lên tiếng: “Chắc anh trai đang tự hỏi làm sao em biết được, kinh nghiệm cả thôi, khó giải thích lắm. Còn bắn cung thì ngày xưa em học từ một ông chú, chuyện dài không tiện kể ra, anh trai nói không có thời gian mà đúng không?”

Cửu gật đầu, cố gắng trở về với thực tại, y hỏi: “Tối qua cô ở đâu, làm gì?”

“Mấy giờ hả anh trai?”

“Cứ kể nguyên buổi tối.”

“Khoảng nhá nhem thì em đi săn cá, nấu đồ cúng, ăn cơm. Tối chút thì em dọn dẹp miếu, làm xong thì em lau chùi, sửa chữa bộ cung tên rồi đi ngủ.”

“Có ai thấy em làm mấy chuyện đó không?”

“Thua rồi anh trai ơi. Em ở trên đây có một mình.”

“Chuyện ngày xưa của cô với Thầy Bằng là sao? Tôi có nghe người dân kể, nhưng đó chỉ là một phía của câu chuyện.”

“Cái này thì…”, Ngọc Lan thở dài, “Hôm đó em vô bếp chuẩn bị đồ ăn như mọi ngày thì Thầy Bằng đi vào, em hỏi Thầy có dặn dò gì em hả, tự nhiên Thầy tiếp cận em làm em hoảng hồn, lúc đó Thầy mới nói là từ từ đi không có chuyện gì đâu, sau đó Thầy dùng tay sờ vào… sờ vào…” Ngọc Lan không dám nói ra, chỉ dùng tay chỉ lên ngực mình, khuôn mặt Cửu vẫn không có chút biểu cảm, cô nói tiếp: “Lúc đó… em la lên, theo phản xạ em tát Thầy Bằng một cú trời giáng, lúc đó cô Lê mới chạy vô thì thấy em vừa đánh chồng cô nên làm um sùm lên. Thầy Bằng là người lấy được lòng tin của người dân ở đây nên em có giải thích thế nào cũng không ai nghe, đa số họ đều xa lánh em. Có vài người thấy tình cảnh em vậy thì kêu em lên miếu ở, mỗi ngày cúng bái, dọn dẹp đi họ cho tiền… Anh trai, anh phải tin em!”

Cửu vẫn im lặng. Được một lúc mới nói: “Vậy thì cô cũng có mong muốn là Thầy Bằng biến khỏi nơi này?”

Ngọc Lan lau mồ hôi trên trán: “Anh trai nói đúng, nhưng đâu đến nổi phải đi gϊếŧ người ta…”

Lúc này, Cửu mới suy nghĩ trong đầu rằng với bản lĩnh của Ngọc Lan có thể cô dư sức, nhưng hiện trường không có dấu vết gì cho thấy hung thủ dùng võ nghệ hay giằng co gì với Thầy Bằng cả, như chỉ có một mình Thầy Bằng trong căn phòng đó vậy. Có thể hung thủ dùng một đòn tâm lý nào đó, nhưng đòn gì thì nghĩ nát óc cũng không ra. Cuộc nói chuyện đang dần lắng xuống, lúc này hai người đang đứng đối diện với nhau, Cửu lo mải mê suy nghĩ, Ngọc Lan thì chìm trong suy tư gì đó sâu lắm, không hề phát hiện ra có chiếc ghe lúa rất lớn vừa chạy ngang. Sóng lớn đánh vào mạng xuồng làm nó lắc lư dữ dội, chực như sắp lật. Cửu thấy tình thế không ổn, bản thân lại không muốn bị ướt, y bèn nhảy lên phía mạng xuồng bên kia bằng thân thủ hết sức nhanh nhẹn. Cửu đưa tay về sau định kéo Ngọc Lan lên theo mình nhưng bất ngờ thay, cô cũng đã làm động tác tương tự. Hai người nhìn nhau chầm chầm trong lúc chiếc xuồng từ từ trở mình về vị trí cũ.

Đúng lúc đó, từ trên bờ, phía con đường mòn, Cửu nghe tiếng gọi ú ớ, quay lên nhìn thì thấy một tên lính khố xanh đang vẫy tay về phía Cửu, hắn đang gọi y nhưng không biết phải xưng hô như thế nào. Cửu nói với Ngọc Lan chống xuồng về phía đó, đến nơi cô mới gọi với lên: “Anh trai còn muốn hỏi gì nữa không?”

Cửu lắc đầu bảo nếu có gì sẽ tự động đến tìm, Ngọc Lan chào y rồi chống xuồng tiếp tục đi “săn cá”. Cửu quay sang hỏi tên lính có phát hiện gì mới sao, hắn mới bảo: “Dạ bẩm, cai trưởng sai con đi tìm đại nhân, cai trưởng bảo đại nhân nên tới xem cảnh này.”

Tên lính khố xanh dẫn Cửu đi băng qua ngồi nhà gỗ nơi tìm thấy xác của Thầy Bằng, tiến sâu hơn vào khu rừng dừa nước, phút chốc trước mặt đã hiện ra kiến trúc gồm ba ngôi nhà gỗ khác có kích cỡ nhỏ hơn được cất sát nhau. Xung quanh khu vực này lính khố xanh đứng canh gác khá nhiều, Cửu biết đã có chuyện không lành. Tên cai trưởng đang đứng đợi Cửu ở căn phòng số một, vừa thấy Cửu hắn liền lắc đầu ngao ngán rồi dẫn Cửu vào trong xem. Cửu cũng đã đoán được phần nào nên cũng không bất ngờ là mấy, bên trong những bức tường đều được lót bằng bông gòn y hệt như hiện trường đầu tiên. Cửu lần lượt kiểm tra từng căn phòng, việc này mất khoảng một giờ đồng hồ, cai trưởng và đám lính vẫn đứng ngoài kiên nhẫn chờ đợi.

Khác với căn phòng đầu tiên, ba căn phòng này còn có thêm một chiếc bàn, cạnh bàn là một sợi dây thừng rắn chắc, đối diện với chiếc bàn ở bên kia phòng là cái giá treo, trên đó là một hình nộm gỗ được điêu khắc hết sức tinh xảo, ngủ quan được sơn sinh động, khuôn mặt và cơ thể thì màu trắng bệch, hình nộm còn được cho mặt đồ, đứng xa nhìn chẳng khác nào một con người thật sự. Điểm tương đồng là vậy, những cả ba hình nộm trong ba căn phòng đều mất những bộ phận khác nhau trên cơ thể, chúng cũng có kích thước không đồng đều, một con to bằng người lớn, một con trung bình và một con nhỏ như đứa trẻ. Cửu tạm gọi chúng là Con To, Con Vừa và Con Nhỏ. Con To bị mất phân nửa khuôn mặt, dưới chân nó chất đầy xương động vật; Con Vừa bị mất phân nửa phần hông, dưới chân nó có một vũng máu tanh hôi; Con Nhỏ bị mất cặp chân, bên dưới không có gì cả.

Chưa hết, những đồ vật được để trên ba cái bàn trong ba căn phòng cũng hết sức khó hiểu, Cửu định sẽ ra ngoài nói với tên cai trưởng đêm nay sẽ ở lại nghiên cứu, bảo hắn ta về trước. Chưa kịp bước đi nửa bước đã thấy hắn hớt hãi chạy vào: “Tiên sinh, tiên sinh ơi! Chết rồi! Chết hết rồi.”

“Chết cái gì, chuyện đâu còn có đó, chú bình tĩnh chút đi.”

“Người của con… bọn nó… bọn nó… vừa tìm thấy xác của Lê Thị và hai đứa con Thầy Bằng!”

---