Chương 16

Việc đầu tiên tôi làm theo bản năng là thụp người né khỏi cửa sổ. Song nếu Gã Nấm bám theo tôi ngay từ đầu thì chắc hẳn vì lí do nào đó gã đã nghi ngờ chuyện lúc nãy tôi có mặt trong ngôi nhà của gã ở Camp’s End. Hành động lén lút sẽ càng chứng thực cho điều sai trái của tôi.

Tôi vẫn ở gần cửa sổ nhưng thật lấy làm biết ơn khi Terrible Chester đứng giữa tôi và Robertson. Tôi cũng hài lòng nhận thấy vẻ ghét cay ghét đắng lộ rõ của con mèo dành cho gã này, dù ở khoảng cách xa như vậy, đã củng cố sự ngờ vực của tôi về gã.

Cho đến giờ phút này, tôi không bao giờ nghĩ rằng Terrible Chester và tôi sẽ cùng tán đồng về bất cứ chuyện gì hay có bất kì điểm chung nào khác ngoài lòng yêu mến dành cho Ozzie “bé”.

Lần đầu tiên tôi thấy Robertson không mỉm cười, không mang vẻ mơ mộng, mà gã khác hẳn. Đứng trong cái nắng mà sức nặng của một ngày đã biến ánh sáng trắng chói lóa thành màu vàng mật ong, phía sau lưng có những hình thù và bóng râm của hàng nguyệt quế làm phông nền, trông gã dữ tợn như bức ảnh khổng lồ của Timothi McVeigh treo trên tường trong phòng làm việc.

Từ phía sau, Ozzie lên tiếng, “Ôi Chúa ơi, chẳng lẽ người ta phải cho kẻ thù vào miệng để cướp đi sự minh mẫn của mình sao.”

Quay lại, tôi thấy anh cầm cái khay gồm hai li rượu và một đĩa nhỏ đựng phô mai viên, bao quanh là bánh quy trắng mỏng.

Cất tiếng cảm ơn, tôi cầm lấy một li rượu và liếc nhìn ra ngoài.

Bob Robertson không còn ở chỗ cũ nữa.

Đánh liều chấp nhận nguy cơ gây hiểu lầm nguy hiểm với Terrible Chester, tôi bước gần hơn đến cửa sổ, nhìn trái phải dọc theo con đường.

“Sao thế?” Ozzie nôn nóng hỏi.

Robertson đã đi, nhanh như có ý định cấp bách.

Đã hoảng sợ khi nhìn thấy người đàn ông lạ mặt này ở hàng rào, tôi còn lo lắng hơn nhiều khi để mất tăm hơi của gã. Nếu gã muốn theo tôi, tôi sẽ chịu để gã bám đuôi vì như thế tôi sẽ biết được gã ở đâu và khi biết rồi sẽ dễ ngơi nghỉ hơn.

“Ôi Chúa ơi, chẳng lẽ người ta phải cho kẻ thù vào miệng để cướp đi sự minh mẫn của mình sao,” Ozzie lặp lại.

Quay người từ cửa sổ vào, tôi thấy anh đã đặt khay xuống và đang đứng cầm li rượu giơ lên như thể nâng cốc chúc mừng.

Cố lấy lại bình tĩnh, tôi cất tiếng, “Một vài ngày khó khăn đến mức nếu không để rượu cướp đi sự minh mẫn thì sao chúng ta ngủ được?”

“Này, anh đâu bảo em thảo luận về câu nói đó, chỉ xác định nguồn gốc của nó thôi.”

Vẫn chưa hoàn hồn bởi gã Robertson nên tôi nói, “Hả?”

Hơi điên tiết, Ozzie la lên, “Shakespeare! Anh cố tình nói câu này vào để đảm bảo em vượt qua trót lọt, thế mà vẫn hỏng bét. Đây là lời Cassio đã nói trong hồi hai, cảnh ba của vở Othello.”

“Em... bị xao lãng.”

Ra dấu về phía cửa sổ, nơi Chester không còn tỏ ra kích động và một lần nữa thả lỏng lớp lông dày trên bậu cửa sổ rộng, Ozzie nói, “Cảnh tưởng phá hoại do bọn thiếu văn hóa bỏ lại mang vẻ đẹp thật tàn nhẫn, đúng không? Nó nhắc nhở ta rằng lớp vỏ bề ngoài của nền văn minh mới mỏng manh làm sao.”

“Xin lỗi đã khiến anh thất vọng, anh à, nhưng suy nghĩ của em không sâu sắc đến thế đâu. Chỉ là... em nghĩ đã thấy một người em có biết đi ngang qua đây.”

Nâng li rượu trong bàn tay năm ngón, Ozzie cất lời, “Chửi cha mắng mẹ tất cả lũ vô lại!”

“Chửi cha mắng mẹ, hơi nặng lời đó.”

“Đừng làm mất vui chứ em, uống đi!”

Vừa uống tôi vừa liếc nhìn ra cửa sổ lần nữa. Sau đó tôi quay lại ghế bành đã ngồi trước khi con mèo rít lên một cách đáng sợ.

Ozzie cũng ngồi xuống nhưng cái ghế của anh kêu lên ầm ĩ hơn ghế tôi nhiều.

Tôi nhìn quanh sách vở, bản sao tuyệt đẹp của mấy cây đèn Tiffany[30] nhưng căn phòng không tạo ra tác động xoa dịu như thường lệ. Tôi như nghe thấy đồng hồ đeo tay của mình đang đếm từng giây, hướng đến nửa đêm và ngày mười lăm tháng Tám.

[30] Đèn Tiffany: một loại đèn kính màu nổi tiếng bậc nhất thế giới.

“Em hay đem quà cáp đến đây,” Ozzie lên tiếng, “và vì hôm nay không thấy món quà nào nên anh cho rằng em đang gặp phải rắc rối phiền muộn gì đó.”

Tôi kể anh nghe tất cả về gã Bob Robertson. Tuy giấu chuyện căn phòng tối đen với cảnh sát trưởng Porter nhưng tôi kể luôn cho Ozzie vì anh có óc tưởng tượng đủ lớn để nhét hết mọi thứ.

Ngoài các tác phẩm thực tế, anh đã sáng tác hai bộ tiểu thuyết thần bí rất thành công.

Bộ đầu tiên, như bạn có thể đoán được, nói về một thám tử mập ú tài nghệ vô song, vừa phá án vừa đưa ra những nhận xét dí dỏm. Anh ta nhờ cô vợ xinh đẹp và rất khỏe mạnh (người hết lòng yêu anh) đảm nhận tất cả các công việc điều tra cần đi lại và thực hiện toàn bộ những hành động mạo hiểm.

Ozzie nói rằng các quyền đó dựa trên những ý tưởng mới lớn ướt đẫm kí©h thí©ɧ tố choán ngợp tâm trí anh trong suốt quãng đời niên thiếu. Và vẫn ám ảnh chưa dứt.

Bộ thứ hai liên quan đến một nữ thám tử, cô vẫn là người nữ anh hùng đáng mến bất kể vô số căn bệnh thần kinh và chứng cuồng ăn. Nhân vật này tượng hình trong bữa tối kéo dài năm giờ đồng hồ mà suốt khoảng thời gian đó, Ozzie và biên tập viên của anh đυ.ng tới muỗng nĩa ít hơn cầm đến li rượu.

Đặt nghi ngờ trước sự quả quyết của Ozzie rằng nhân vật thám tử trong truyện cũng có thể có bất kì vấn đề hay thói quen cá nhân nào, dù không mấy dễ ưa, và vẫn có thể làm say mê công chúng miễn là tác giả biết khéo léo biến nhân vật trở nên đáng mến, biên tập viên trả lời, “Không ai có thể tạo ra lượng lớn độc giả muốn đọc truyện về một thám tử cứ thọc tay vào họng và cho nôn hết ra sau mỗi bữa ăn.”

Tiểu thuyết đầu tiên viết về nhân vật thám tử như trên đã giành được giải Edgar, giải thưởng dành cho thể loại thần bí tương đương tượng Oscar. Tập thứ mười mới xuất bản gần đây của bộ sách bán được số lượng nhiều hơn hẳn chín quyển trước.

Bằng giọng long trọng không thể che giấu niềm vui sướиɠ tinh tướng, Ozzie nói chưa quyển tiểu thuyết nào trong lịch sử văn học mô tả quá nhiều lần nôn mửa lại chiếm được tình cảm của đông đảo độc giả đến thế.

Thành công của Ozzie hoàn toàn không hề khiến tôi ngạc nhiên chút nào. Anh yêu mến mọi người và lắng nghe họ, đồng thời tình yêu thương nhân loại ngời sáng trong những trang sách của anh.

Khi tôi kể xong chuyện gã Robertson, căn phòng tối đen và những dãy tủ đựng hồ sơ đầy nghẹt các vụ gϊếŧ người điên loạn, anh nói, “Odd, anh ước gì em có một khẩu súng.”

“Em sợ súng mà,” tôi nhắc anh.

“Anh sợ cuộc đời em đó. Anh chắc bác Wyatt Porter sẽ chịu cấp phép cho em mang theo vũ khí giấu trong người.”

“Vậy em phải mặc áo khoác thể thao.”

“Em có thể đổi sang áo sơ mi kiểu Hawaii, để súng trong bao nhỏ đeo sau lưng.”

Tôi nhăn mặt, “Áo sơ mi kiểu Hawaii không hợp với em.”

“Ừ, phải rồi,” Ozzie nói bằng giọng mỉa mai không che giấu, “áo phông quần jeans của em đúng là cách thể hiện thời trang độc đáo thật.”

“Có lúc em mặc quần kaki.”

“Độ sâu tủ quần áo của em làm đầu óc người ta choáng ngợp. Đến Ralph Lauren còn phải bật khóc.”

Tôi nhún vai, “Em là em.”

“Nếu anh mua một vũ khí thích hợp cho em và đích thân hướng dẫn em sử dụng...”

“Cảm ơn vì sự lo lắng của anh nhưng chắc chắn em sẽ bắn vào cả hai chân mình và điều kế tiếp em được biết là anh viết một bộ truyện về tay thám tử tư bị què cả đôi chân.”

“Cái đó có rồi.” Anh hớp ngụm rượu. “Cái nào cũng có hết rồi. Việc cho ra đời thứ mới toanh như nhân vật thám tử nôn mửa chỉ đến duy nhất một lần thôi.”

“Vẫn còn bệnh tiêu chảy kinh niên đó.”

Ozzie nhăn nhó, “Anh e rằng em không có sở trường để trở thành tiểu thuyết gia viết truyện thần bí nổi tiếng. Gần đây em đã viết cái gì?”

“Cái này cái kia.”

“Anh cho rằng ‘cái này’ ám chỉ danh sách vật dụng cần mua còn ‘cái kia’ chỉ những bức thư tán tỉnh dành cho Stormy Llewellin, em còn viết cái gì khác nữa không?”

“Chẳng còn gì khác hết,” tôi thú nhận.

Khi tôi mười sáu tuổi, P.Oswald Boone, khi đó mới nặng ba trăm năm mươi pao, đồng ý làm giám khảo cuộc thi viết văn tại trường tôi, ngôi trường chính anh đã tốt nghiệp cách đó vài năm. Giáo viên tiếng Anh của tôi yêu cầu học sinh nào cũng phải gửi bài dự thi.

Vì bà ngoại Sugars mới vừa qua đời và vì tôi đang nhớ bà nên tôi đã viết một bài về bà. Chẳng may, bài đó đoạt giải nhất, khiến tôi nổi tiếng chút ít trong trường, dù rằng tôi thích chìm hơn.

Nhờ những kí ức về bà, tôi nhận được ba trăm đôla với một tấm bằng. Tôi bỏ tiền ra mua một dàn nhạc không đắt nhưng nghe khá hay.

Tấm bằng và dàn nhạc sau đó bị đập vỡ thành trăm mảnh bởi một con yêu quái nổi cơn tam bành.

Kết quả duy nhất còn lại lâu dài từ cuộc thi viết văn đó là tình bạn của tôi với Ozzie “bé”, điều tôi rất trân trọng dù trong suốt năm năm anh cứ liên tục thúc ép tôi viết, viết và viết. Anh nói tài năng là một món quà và theo lương tâm, tôi có nghĩa vụ phải tận dụng nó.

“Hai món quà là quá nhiều,” tôi đang nói với anh. “Nếu em phải đối phó với hồn người chết rồi còn phải viết ra gì đó đáng giá thì em một là phát điên hoàn toàn, hai là sẽ tự bắn vào đầu mình bằng khẩu súng anh muốn cho em.”

Hết kiên nhẫn với lí sự của tôi, anh nói, “Viết lách không phải khởi nguồn của đau khổ. Đó là chất trị liệu cho tinh thần. Nó khiến những khối u tâm lí bớt sưng tấy và xoa dịu nỗi đau.”

Tôi không nghi ngờ điều đó có đúng với anh không hay anh có đau đến mức cả đời phải cần chất trị liệu cho tinh thần không.

Tuy Ozzie “lớn” vẫn còn sống nhưng Ozzie “bé” chỉ gặp bố mỗi năm một hai lần. Mỗi lần gặp xong, anh cần hai tuần để lấy lại sự cân bằng cảm xúc và tinh thần vui vẻ đặc trưng.

Mẹ anh cũng còn sống. Ozzie “bé” không nhắc đến bà đã hai mươi năm.

Ozzie “lớn” hiện chỉ nhẹ hơn con trai chừng năm mươi pao, do đó đa số mọi người đều cho rằng Ozzie “bé” thừa hưởng tình trạng béo phì từ bố.

Song Ozzie “bé” không chịu xem mình là nạn nhân của sự di truyền. Anh nói bản chất anh là người yếu lòng nên mới có thân hình đồ sộ vậy.

Nhiều năm qua, đôi lúc anh nói bóng gió và tôi thường suy ra rằng chuyện bố mẹ làm tan nát một phần trái tim anh đã dẫn đến sự mềm yếu ghê gớm này. Thế nhưng anh chưa bao giờ kể về tuổi thơ gian khó và không hề nói ra điều anh đã phải cam chịu. Anh chỉ viết tiểu thuyết thần bí, hết quyển này đến quyển khác...

Anh không nhắc đến người thân bằng giọng cay đắng. Thay vào đó, hầu như anh không hề nói đến họ và tránh xa họ hết mức có thể. Anh viết sách về nghệ thuật, âm nhạc, ẩm thực, rượu vang, hết cuốn này đến cuốn khác...

“Viết lách,” tôi nói, “không thể xoa dịu nỗi đau của em nhiều bằng hình ảnh của Stormy... hay bằng hương vị kem dừa anh đào sôcôla miếng, vấn đề là chỗ đó.”

“Anh không có Stormy nào trong đời,” anh đáp, “nhưng anh có thể hiểu chuyện kem.” Ozzie uống cạn li rượu. “Em tính thế nào với gã Bob Robertson này?”

Tôi nhún vai.

Ozzie thúc ép tôi, “Em phải làm gì đó chứ, gã biết em vào nhà gã hồi chiều và bám theo em khắp nơi rồi.”

“Tất cả những gì em có thể làm là thận trọng. Và chờ lúc cảnh sát trưởng Porter tìm ra điều gì đó về gã. Dù sao thì cũng có thể không phải gã bám theo em. Chắc gã nghe chuyện con bò nổ tung của anh và đi ngang xem đống tàn tích thôi.”

“Odd, anh sẽ thất vọng không gì tả xiết nếu chưa tận dụng tài năng viết lách của em vào mục đích hữu ích nào mà ngày mai em đã chết ngoẻo.”

“Nghĩ xem em thấy sao.”

“Anh ước gì em mau khôn ra, kiếm một khẩu súng và viết một cuốn sách chứ anh không mong bất kì mạng sống của ai phải ra đi vì gã. ‘Bước chân ngày tháng trong những năm tuổi trẻ mới nhanh làm sao’.”

Quy kết cho trích dẫn, tôi nói, “Mark Twain.”

“Tuyệt vời! Có lẽ xét cho cùng em không phải thằng khờ non nớt ngu dốt cứng đầu.”

“Lúc trước anh đã nói câu này rồi,” tôi thú thật, “thế nên em mới biết.”

“Ít ra em cũng còn nhớ! Anh tin điều đó, cho dù vô tình, em đã bộc lộ lòng khao khát muốn từ bỏ vỉ nướng và trở thành người của văn chương.”

“Điều em mong trước nhất là chuyển sang lĩnh vực lốp xe.”

Ozzie thở dài, “Đôi lúc em đúng là người thích cực khổ.” Anh lấy một ngón tay gõ vào li rượu rỗng không. “Lẽ ra anh phải đem theo cả chai.”

“Cứ ngồi đi. Em lấy cho,” tôi lên tiếng vì tôi có thể xuống bếp mang chai rượu Cabernet lên trong khoảng thời gian mà đối với Ozzie chỉ đủ để nhấc mình ra khỏi ghế bành.

Dãy hành lang rộng hơn ba mét dùng làm nơi trưng bày nghệ thuật, hai bên là những căn phòng chất đầy cũng là tác phẩm nghệ thuật.

Cuối hành lang là gian bếp. Trên quầy bếp lát đá granit đen có một cái chai đã tháo nút để rượu được thở.

Mấy phòng ngoài có gắn máy điều hòa tạo cảm giác dễ chịu còn gian bếp lại nóng đến kinh ngạc. Bước vào, trong chốc lát tôi cứ tưởng cả bốn bếp lò đều đang nướng thức ăn.

Và rồi tôi thấy cửa sau để mở. Chiều tối ở vùng sa mạc, vẫn nóng bức dưới ánh mặt trời mùa hè ngoan cố, đã hút hết không khí mát mẻ trong bếp.

Khi bước ra đóng cửa, tôi thấy Bob Robertson ở sân sau, tái nhợt và giống cây nấm như bộ dạng trước nay.