Chương 17

Robertson đứng hướng mặt về phía ngôi nhà như thể chờ tôi nhìn thấy gã. Sau đó gã quay lưng bỏ đi ra phía sau mảnh đất. Mất một lúc lâu, tôi cứ đứng do dự tại ô cửa, không biết nên làm gì.

Tôi cho rằng có thể một người hàng xóm của gã nhận ra tôi và báo cho gã biết tôi đã rình mò khắp nơi trong lúc gã vắng mặt. Nhưng sự chóng vánh trong việc gã tìm thấy và bắt đầu bám theo tôi thật khiến người ta hoảng vía.

Cảm giác tê cứng tan biến khi tôi chợt nhận thấy mình đã gây họa cho Ozzie, dẫn kẻ tâm thần này đến nhà anh. Tôi rời bếp, băng qua hàng hiên, bước xuống bậc tam cấp đi ra sân, giẫm lên cỏ và theo sau Robertson.

Ngôi nhà của Ozzie nằm phía trước mảnh đất một mẫu và phần lớn đất đai dành chỗ cho mớ cỏ cây che chắn anh khỏi hàng xóm láng giềng. Nửa mẫu đất phía sau, cây cối dày đặc hơn cả phía trước và mọc rậm rạp đến mức đủ tiêu chuẩn trở thành khu rừng nhỏ.

Vào bãi trồng nguyệt quế, kim giao, hạt tiêu hồng, Robertson sải bước và mất hút khỏi tầm mắt.

Mặt trời nấn ná phía tây xuyên qua hàng cây, nơi nó có thể tìm thấy các kẽ hở nhỏ hẹp, nhưng phần lớn những tầng cây đã ngăn cản ánh nắng thành công. Mát mẻ hơn bãi cỏ bị nắng thiêu đốt, những bóng râm rợp mùi cây cỏ tuy thế vẫn nóng bức và chúng đẩy tôi vào vòng kìm kẹp.

Không đỡ hơn gì mấy bóng râm ngọt ngào giả tạo kia, rất nhiều thân cây gây cản trở tầm nhìn. Con mồi của tôi tận dụng rất tốt những thứ đó.

Nhanh chóng và thận trọng, tôi len lỏi khắp khu rừng, từ hướng bắc xuống hướng nam rồi từ hướng nam lên hướng bắc, lúc đầu im lặng sau đó gọi to, “Ông Robertson,” nhưng gã không đáp lại.

Ánh mặt trời ít ỏi lọt vào ngăn chặn hơn là hỗ trợ cuộc tìm kiếm. Chúng tỏa sáng chút ít nhưng chỉ đủ ngăn không cho mắt tôi thích nghi với bóng tối.

Tôi mất rất nhiều thời gian mới tới cánh cửa ở hàng rào phía sau. Tôi thấy cửa khép kín những chốt loại này sẽ tự động cài lại khi cửa đóng sầm sau lưng gã.

Cánh cửa mở ra lối đi lát gạch rất đẹp, bên hông là hàng rào và ga-ra, che bóng mát đó đây là những cây cọ và cây tiêu rủ xuống tha thướt. Tôi nhìn cả hai hướng cũng không thấy Bob Robertson hay bất kì ai khác đang đi bộ.

Quay về qua lối khi rừng nhỏ, tôi nửa muốn nửa không muốn gã xông vào tôi. Vậy ra gã chưa đi mà chờ tóm gọn tôi lúc tôi lơ là. Nếu Robertson đang trốn trong đám rừng kia, chắc hẳn gã nhận ra tôi vẫn cảnh giác cao độ, vì gã không mạo hiểm tấn công.

Ra tới hiên sau, tôi dừng bước, quay người lại và xem xét kỹ khu rừng nhỏ. Chim chóc bay khỏi nhánh cây, không phải như bị xua đuổi mà chỉ như tung cánh lần cuối trước khi mặt trời lặn.

Vào bếp, tôi đóng cửa lại. Tôi khóa chốt và cài sợi xích.

Tôi đưa mắt qua ô kính cửa sổ săm soi. Khu rừng yên ắng và tĩnh lặng.

Khi tôi trở vào phòng khách với chai Cabernet, phân nửa phô mai biến mất khỏi đĩa bánh, còn Ozzie “bé” vẫn ngồi lọt thỏm trong cái ghế rộng, có lần anh nói ngồi đây anh thấy thoải mái như vua cóc ngồi trên ngai vàng. “Odd thân mến, anh tưởng em bước vào tủ quần áo đi qua vùng đất Narnia rồi đó chứ.”

Tôi kể anh nghe về gã Robertson.

“Ý em muốn nói,” anh lên tiếng, “Gã đã ở đây, trong nhà anh sao?”

“Dạ, em nghĩ vậy,” tôi vừa nói vừa rót rượu cho anh.

“Làm gì?”

“Chắc đứng trong hành lang, ngay ngoài mái hiên, lắng nghe chúng ta nói chuyện.”

“Thật quá trơ trẽn.”

Đặt cái chai lên khay cạnh li rượu của anh, khó nhọc kiềm chế nỗi sợ tê người khiến đôi tay run rẩy, tôi nói, “Em cũng trơ trẽn đâu kém khi lẻn vào nhà gã lục lọi ngăn kéo.”

“Anh cho rằng không phải vậy, khi mà em ở bên phe thần thánh còn gã khốn kia giống như con gián bạch tạng khổng lồ trốn khỏi địa ngục.”

Terrible Chester đã rời vị trí bậu cửa sổ sang ghế của tôi. Nó ngước đầu như thách tôi giành lại chỗ. Đôi mắt màu xanh của nó rực lên như đôi mắt con quỷ nhỏ có mưu đồ.

“Nếu anh là em,” Ozzie cất lời khuyên, “anh sẽ ngồi chỗ khác.” Anh ra dấu về phía chai rượu, “Em không uống thêm li nữa à?”

“Em còn chưa uống hết li lúc nãy,” tôi trả lời, “và em thật sự phải đi. Stormy Llewellin, bữa tối, đủ thứ chuyện. Nhưng anh không cần đứng dậy.”

“Đừng bảo anh không cần đứng dậy,” anh vừa gắt gỏng vừa bắt đầu quá trình nhấc thân người ra khỏi nệm ghế, giống như tấm nệm là cái miệng đói khát của một giống cây ăn thịt người kì lạ đã ngậm chặt bắp đùi và cặp mông của anh với lực hút lớn.

“Anh à, thật sự không cần thiết mà.”

“Đừng bảo anh chuyện gì là cần thiết, nhóc con táo tợn. Mọi thứ anh muốn làm đều là chuyện cần thiết, bất chấp nó tỏ ra không cần thiết đến mức nào.”

Đứng dậy sau khi ngồi một hồi lâu, da mặt Ozzie đôi lúc ửng đỏ lên vì ráng sức, nhiều khi lại trắng bệch ra. Tôi hoảng sợ khi nghĩ chỉ một việc đơn giản như nhổm dậy khỏi ghế cũng đòi hỏi ở anh quá nhiều nỗ lực.

May thay, lần này mặt anh không đỏ cũng chẳng trắng. Có lẽ được tiếp sức nhờ rượu và chỉ mới tọng vào nửa đĩa phô mai nên anh đứng thẳng dậy nhanh hơn rõ rệt so với một con rùa vùng sa mạc trồi lên khỏi đυ.n cát nguy hiểm.

“Giờ anh đứng dậy rồi,” tôi nói, “em nghĩ anh nên khóa cửa lại sau khi em đi. Và cứ khóa hết cửa nẻo đến khi vụ này giải quyết xong. Đừng mở cửa trừ khi anh thấy được người nào nhấn chuông.”

“Anh không sợ gã đó,” Ozzie tuyên bố, “dù dao hay đạn cũng khó chạm tới được các bộ phận cơ thể chắc nịch đầy sức sống của anh. Anh còn biết chút ít võ tự vệ.”

“Tên này nguy hiểm lắm, anh à. Đến giờ có lẽ gã còn tự chủ được nhưng khi lên cơn, gã sẽ tàn ác đến mức xuất hiện trên bản tin buổi tối từ Paris đến tận Nhật Bản. Em sợ gã.”

Ozzie vẫy bàn tay sáu ngón xua đi sự âu lo của tôi. “Khác với em, anh có súng rồi. Không chỉ một khẩu.”

“Bắt đầu để chúng trong tầm tay đi. Em rất tiếc khi đã kéo gã đến đây.”

“Vớ vẩn. Gã chỉ là thứ bám trên chiếc giày của em mà em không biết nó có ở đó thôi.”

Mỗi lần rời ngôi nhà này, Ozzie đều ôm tôi thắm thiết như người bố ôm đứa con trai thân yêu, tuy không ai trong chúng tôi từng được bố ôm siết.

Và những lúc ấy, tôi ngạc nhiên khi anh có vẻ yếu đuối cho dù hình dáng thật bệ vệ. Như thể tôi cảm nhận được một Ozzie cực kì gầy yếu bên trong lớp vỏ mà cuộc đời phủ chồng lên anh.

Đứng tại cánh cửa trước hé mở, anh nói, “Gửi Stormy một nụ hôn giùm anh.”

“Dạ.”

“Dẫn cô ấy đến để nhìn thấy tận mắt con bò xinh đẹp bị nổ tung của anh và hành vi côn đồ mà hình ảnh đó tượng trưng.”

“Nàng sẽ kinh hồn bạt vía. Nàng sẽ cần rượu. Chúng em sẽ mang theo một chai.”

“Không cần, anh có đầy cả hầm.”

Tôi đứng ngoài hiên đợi đến khi anh đóng cửa xong và đến khi tôi nghe thấy tiếng chốt cửa gài lại.

Trong lúc vượt qua lối đi phía trước vương vãi con bò rồi đi vòng sang cửa tài xế của chiếc Mustang, tôi quan sát con đường yên ắng. Robertson và cả chiếc Ford Explorer bụi bặm của gã đều biến đâu mất.

Vào trong xe, khi nổ máy, bất chợt tôi tưởng mình bị thổi bay lên như hình con bò Holstein. Tôi giật bắn người.

Tôi đi trên tuyến đường quanh co từ Jack Flats đến nhà thờ St. Bartholomew nằm trong vùng đất lịch sử, mang đến cả đống cơ hội phát hiện ra gã. Đám xe cộ chạy sau tôi dường như không hề có ý định bám theo tôi. Thế mà tôi vẫn có cảm giác bị theo dõi.