Chương 33: Vụ án thứ 8 - Bé trai mất tích (3)

Nội tạng của nạn nhân không có tổn thương rõ rệt, nhưng bị thối rữa nghiêm trọng nên không thể nào phán đoán có bị tụ máu, sung huyết hay không, lại thêm móng tay của nạn nhân đã bị rụng hết nên không thể tìm thấy căn cứ để suy đoán về ngạt thở cơ học.

Đã giải phẫu hơn ba tiếng đồng hồ, ánh nắng đầu chiều rọi thẳng xuống đỉnh đầu, mùi hôi thối vẫn không hề giảm bớt khiến đầu óc chúng tôi xây xẩm. Chúng tôi bắt đầu phân công công việc, tôi khám nghiệm tình hình thức ăn trong dạ dày nạn nhân để xác định thời gian tử vong, Đại Bảo và bác sĩ Giang tìm kiếm chứng cứ hỗ trợ để tìm ra nguyên nhân tử vong.

“Tổ chức não đã hóa lỏng, đợi tôi lấy não ra đã.” Bác sĩ Giang thận trọng đưa phần não sền sệt ra khỏi hộp sọ, nói: “Đá xương thái dương xuất huyết, ồ, đây cũng là một căn cứ để phán đoán ngạt thở cơ học đấy.”

“Hình như tôi cũng đã tìm thấy một vài chứng cứ.” Đại Bảo nói. “Bên dưới một nửa bộ da mặt còn sót lại của nạn nhân hình như có một vài chỗ thâm đen, đại khái là ở gần khoang mũi miệng. Có lẽ mũi miệng của nạn nhân đã bị bịt chặt. Để tối lấy ra hai chiếc răng xem có hiện tượng răng hoa hồng hay không.”

“Răng hoa hồng” là cách hình dung lãng mạn của giới pháp y đối với hiện tượng xuất huyết chân răng trong trường hợp tử vong do ngạt thở. Trong tài liệu nói rằng nếu nạn nhân tử vong do ngạt thở, chân răng sẽ xuất hiện màu hoa hồng, sau khi ngâm trong cồn, màu hoa hồng sẽ càng thêm rõ rệt. Giáo trình cũng nói, răng hoa hồng có giá trị nhất định khi phán đoán một thi thể đã thối rữa có hiện tượng ngạt thở hay không, nhưng chưa phải là căn cứ tuyệt đối.

Trong thực tiễn công tác của chúng tôi, đúng là răng hoa hồng thường xuất hiện trong trường hợp tử vong do ngạt thở, nhưng đôi khi cũng xuất hiện ở một số trường hợp tử vong không phải do ngạt thở. Về nguyên lý gây chảy máu chân răng, vẫn chưa có nghiên cứu chuẩn xác đáng tin cậy. Hiện tại, một số chuyên gia pháp y thông qua nghiên cứu đã cho rằng chảy máu chân răng và ngạt thở không có mối quan hệ trực tiếp với nhau. Vì thế, hiện tượng này cũng giống như cái tên của nó, tràn đầy thần bí.

Nhưng là một bác sĩ pháp y thực tiễn, nhất định phải tìm ra tất cả những triệu chứng có khả năng hiện diện, cho dù là nhân tố mang tính quyết định hay chỉ là nhân tố tham khảo đối với phán đoán cuối cùng.

Đại Bảo lấy ra một chiếc kìm nhổ xương, xuống tấn sẵn sàng, chuẩn bị nhổ răng.

Tôi đứng ở phía bên kia thi thể, từ từ sắp xếp lại ruột, dạ dày, rồi cầm dao giải phẫu rạch mở vách dạ dày.

Thức ăn chứa trong dạ dày từ từ hiện ra trước mắt.

“Đã xác định được thời gian tử vong.” Tôi nói.

Tôi vừa dứt lời, đã “cách” một tiếng, Đại Bảo đứng đực ra tại chỗ.

“Sao thế?” Tôi hỏi.”

“Ờ…” Đại Bảo lắp bắp, “kìm… kìm bị trượt. Răng… răng bay đi mất rồi.”

“Răng bay mất rồi?” Tôi giục. “Anh đi tìm đi!”

Tuy hai mươi tư chiếc răng trong miệng xác chết đều có thể trở thành căn cứ phán đoán của chúng tôi, nhưng trừ phi thật cần thiết, còn thì chúng tôi sẽ không tùy tiện lấy đi hay đánh mất bất cứ bộ phận nào của thi thể. Đây có lẽ là một quy tắc bất thành văn, biểu thị sự tôn trọng của bác sĩ pháp y đối với nạn nhân.

Chúng tôi nhanh chóng tìm thấy chiếc răng bị rơi xuống đất. Dưới ánh mặt trời, phần chân răng có màu đỏ nhạt.

“Có nhiều căn cứ thế này, tôi nghĩ rằng chúng ta đã có thể đưa ra kết luận nguyên nhân tử vong là do bị bịt mũi miệng dẫn đến ngạt thở cơ học.” Bác sĩ Giang hài lòng nói.

“Thời gian tử vong đã rõ.” Tôi nói. “Hạt cơm trong dạ dày vẫn còn nguyên hình thù, dạ dày rất đầy, thức ăn trong dạ dày là cơm, mộc nhĩ, trứng, cà chua, chủ yếu là cơm. Thức ăn vừa vào đến tá tràng, vì vậy có thể phán đoán nạn nhân ăn bữa cuối cùng trước khi chết hai tiếng đồng hồ.”

“Xin cậu đấy!” Lâm Đào nôn khan. “Cậu đừng có nhắc đến chữ cơm nữa được không?”

*

“Nạn nhân là Bào Quang Mẫn, nam, 11 tuổi, học sinh lớp 5 trường tiểu học huyện Dương Cung.” Khi tổ chuyên án nhóm họp lần đầu, trước tiên sẽ do điều tra viên chính giới thiệu về tình hình điều tra sơ bộ. “Nạn nhân là con trai độc nhất trong nhà, bố mẹ bán tôm hùm trong chợ đêm, ở thuê tại một căn phòng nhỏ trong huyện. Ngày 9 tháng Tám, tức năm ngày trước, vào khoảng 1 rưỡi chiều, nhân lúc bố mẹ bận rửa tôm, cậu bé đã lẻn ra cửa sau trốn đi mất, không biết đi đâu.”

“Trốn đi?” Tôi hỏi.

“Đúng vậy!” Điều tra viên gật đầu xác nhận. “Hôm đó là chủ nhật, đáng ra cậu bé phải ở nhà làm bài tập. Bố mẹ cậu bé rất nghiêm khắc với việc học hành của con nên chúng tôi suy đoán nạn nhân đã trốn đi chơi. Chiều hôm đó, nạn nhân không về nhà. Bố mẹ nạn nhân ra chợ bán tôm, đến 10 giờ đêm mới về nhà, thấy con chưa về thì đi tìm khắp nơi nhưng không thấy đâu cả.”

“Thế trước khi trốn đi, nạn nhân có gọi điện cho ai không?” Lâm Đào hỏi.

“Không. Đã kiểm tra toàn bộ các cuộc gọi, không có bất cứ hiện tượng khả nghi nào.”

Phòng họp im lặng, mọi người đều đổ dồn ánh mắt vào tôi. Tôi biết họ muốn tôi trình bày tình hình khám nghiệm tử thi. Tôi hắng giọng, nói: “Nạn nhân tử vong do ngạt thở cơ học, có lẽ đã bị bịt kín mũi miệng gây ngạt thở. Nạn nhân tử vong sau khi ăn bữa cuối cùng khoảng hai tiếng đồng hồ, thức ăn chủ yếu là cơm, mộc nhĩ, trứng và cà chua.”

Điều tra viên gật đầu: “Hoàn toàn phù hợp với kết quả điều tra của chúng tôi. Nạn nhân ăn trưa vào lúc 12 giờ ngày mồng 9, bữa trưa có cơm, mộc nhĩ xào trứng và cà chua xào trứng.”

“Nếu vậy thì có thể phán đoán thời gian tử vong là khoảng 2 giờ chiều mồng 9.” Tôi nói. “Ngoài ra, chúng tôi cho rằng động cơ gϊếŧ người của vụ án này là nhằm mục đích da^ʍ ô, hoặc ít nhất là có một phần động cơ là da^ʍ ô. Bởi vì hậu môn của nạn nhân có tổn thương rõ rệt.”

Tôi vừa dứt lời, phòng họp bỗng trở nên ồn ào, mọi người đều ghé đầu rì rầm bàn tán.

Cao Bưu, tổ trưởng tổ chuyên án, phó giám đốc phụ trách mảng điều tra hình sự của Công an huyện Dương Cung lên tiếng: “Vậy thì hướng điều tra của chúng ta liệu có lạc đường không? Hiện tại, chúng tôi đang triển khai công tác xung quanh một đối tượng tình nghi.”

“Có đối tượng tình nghi rồi sao?” Tôi rất thích nghe thấy câu này. “Nhưng tôi đã nói, rất có thể đó chỉ là một trong những động cơ, chưa thể loại trừ hung thủ có thù oán với người nhà nạn nhân. Vậy nghi phạm là người thế nào?”

“Đối tượng tình nghi tên là Lý Lập,” điều tra viên nói, “nam, 18 tuổi, hành nghề bán tôm hùm, từng tranh giành mối làm ăn với nhà họ Bào, đã có lần bị bố của Bào Quang Mẫn đánh.”

“Vậy thì, tôi cảm thấy chưa thể loại trừ đối tượng này được.” Tôi nói.

“Ồ?” Phó giám đốc Cao nói. “Thế anh có ý kiến gì, cứ trình bày xem sao. Nếu hợp lý, chúng tôi sẽ đi bắt người.”

“Không có chứng cứ đầy đủ.” Tôi nói. “Tôi chỉ cảm thấy độ tuổi rất phù hợp.”

“Ý anh muốn nói là thanh thiếu niên gây án?”

Tôi gật đầu, nói: “Chủ yếu dựa trên hai phương diện. Thứ nhất, nạn nhân bị sát hại ở trong nhà hoặc ở nơi hẻo lánh. Một cậu bé 11 tuổi thì đã có ý thức cảnh giác tối thiểu, không dễ bị người lạ lừa gạt. Có thể lừa cậu bé đến nơi vắng vẻ thì hung thủ hoặc là người quen, hoặc là tuổi tác chênh lệch không nhiều, cùng là thanh thiếu niên. Trẻ con dễ tin tưởng người hơn mình vài tuổi, chứ nếu là người lớn thì lại khó lừa gạt trẻ con hơn.”

“Có lý đấy.” Phó giám đốc Cao gật gù. “Tâm lý học thanh thiếu niên hình như có nói đến điểm này.”

Tôi nói tiếp: “Thứ hai, chúng tôi phát hiện ra rất nhiều tổn thương kỳ quặc trên thi thể. Có những chỗ không thể dùng dao chặt được nhưng lại có rất nhiều vết dao chém, có lẽ là muốn chặt xác; có chỗ lại dùng những biện pháp rất ấu trĩ để đốt xác, có lẽ là muốn thiêu hủy. Sử dụng nhiều cách để hủy xác, cách nào cũng rất ấu trĩ, người trưởng thành sẽ không bao giờ sử dụng những phương pháp khó tưởng tượng như vậy.”

“Nhưng tôi lại nghĩ thanh thiếu niên chắc khó mà nghĩ ra được nhiều cách hủy xác như thế.” Phó giám đốc Cao nói.

“Có mạng mà,” Đại Bảo cắt ngang, “hai hôm trước tôi lên mạng còn thấy một trang web dạy rằng rắc vôi vào tử thi, sau đó dùng búa đập nát, cho vào bồn cầu giội nước. Đều là tự tưởng tượng cả, cực kỳ ấu trĩ.”

“Về cách thức tiêu hủy xác chết,” tôi nói, “cho dù có nói lên được độ tuổi của hung thủ hay không, nhưng chí ít cũng cho thấy được tâm lý và kinh nghiệm của hắn. Đây là một kẻ kinh nghiệm cực kỳ non nớt.”

“Thế thì chúng tôi sẽ đi bắt người về thẩm tra xem sao.” Phó giám đốc Cao nói.

*

Trong khi phía cảnh sát bắt người và thẩm vấn, tôi, Đại Bảo, Lâm Đào lên xe của Hàn Lượng, chuẩn bị đi quanh phố huyện một vòng. Không phải đi dạo chợ đêm Dương Cung, cũng không phải đi ăn tôm hùm. Chúng tôi muốn tìm hiểu mối liên hệ giữa địa điểm vứt xác nạn nhân và nhà của Bào Quang Mẫn.

Đôi khi, nhìn vào sơ đồ hiện trường sẽ không thể cảm nhận được phương hướng và khoảng cách tại hiện trường, đặc biệt là đối với những kẻ dốt toán như chúng tôi.

Nhà của Bào Quang Mẫn nằm ở khu dân cư đông đúc phía tây bắc phố huyện, nơi đây có nhiều quán ăn ven đường nhất, buổi tối rất nhộn nhịp. Bố mẹ Bào Quang Mẫn lựa chọn thuê nhà ở đây là rất sáng suốt. Từ nhà nạn nhân đến con phố bán đồ ăn đêm đi bộ chỉ mất mười phút. Nhưng nhà cửa ở khu cư dân này phần lớn không hợp pháp, san sát dày đặc, lỡ chẳng may có hỏa hoạn thì xe cứu hỏa không thể vào được. Vì thế, ở đây cũng không có camera giám sát.

Từ nhà Bào Quang Mẫn trở ra, chúng tôi đi mất mười lăm phút mới ra được đường cái, lên xe của Hàn Lượng đến địa điểm vứt xác. Con đường này gần như chạy xéo góc với phố huyện. Nửa tiếng sau, chúng tôi mới đến được địa điểm vứt xác ở góc đông nam phố huyện. Đây cũng là một khu dân cư nhưng nhà cửa thưa thớt, mới 9 giờ tối đã vắng lặng như tờ.

Tôi gọi điện thoại cho điều tra viên, sau đó đưa điện thoại cho Hàn Lượng: “Để điều tra viên chỉ đường cho anh, tự dưng em muốn đến gần nhà nghi phạm Lý Lập xem sao.”

Hàn Lượng được chúng tôi gọi là GPS sống, bởi vì thường xuyên đi công tác, thích xem bản đồ, hơn nữa cảm nhận phương hướng cực tốt, nên khắp toàn tỉnh không có chỗ nào anh ta không tìm được. Rất nhanh, anh đã lái xe đến nhà Lý Lập ở trung tâm phố huyện.

Ở tầng dưới nhà Lý Lập vẫn đỗ chiếc xe mô tô ba bánh, trên thùng xe là nồi niêu bếp lò, đây là đồ nghề làm ăn của Lý Lập. Tuy nhà ở trung tâm phố huyện nhưng ngày nào Lý Lập cũng đi xe đến phía tây bắc phố huyện để bán hàng, phải vượt qua một chặng đường khá xa.

Đèn trong nhà Lý Lập vẫn sáng, tôi thấy vài chùm sáng rọi qua rọi lại, chứng tỏ các kỹ thuật viên đã vào trong nhà, đang tiến hành khám xét.

Tôi đứng bên xe, ngẫm nghĩ một lát, bỗng đập mạnh vào đầu kêu lên: “Chết rồi, bắt nhầm người rồi!”

“Tại sao?” Đại Bảo hỏi. “Điều kiện rất phù hợp cơ mà?”

“Điều kiện cá nhân rất phù hợp, nhưng điều kiện địa lý không phù hợp.” Lâm Đào có cùng suy nghĩ với tôi.

Chúng tôi lái xe quay trở lại tổ chuyên án, không ngoài dự đoán, mọi người trong phòng đều mặt mũi ỉu xìu.

“Có vẻ như không phải là cậu ta.” Phó giám đốc Cao nói. “Sau khi thẩm tra đột xuất, cậu ta không có biểu hiện gì bất thường. Đã khám nhà, cũng không có bất cứ điểm nghi vấn nào. Đang kiểm chứng chứng cứ ngoại phạm của cậu ta.”

“Có lẽ hung thủ không phải là cậu ấy đâu.” Tôi nói. “Chúng ta đã quá chú trọng đến điều kiện nhận diện hung thủ, nhưng đã bỏ qua một điểm then chốt, đó là vấn đề thời gian tử vong. Theo suy đoán của tôi, nạn nhân đã ăn bữa cuối cùng trước khi chết khoảng hai tiếng đồng hồ. Nạn nhân ăn trưa vào 12 giờ ngày mồng 9, đến 1 giờ 30 phút mới ra khỏi nhà, tức là chỉ nửa tiếng sau, cậu bé đã tử vong. Trong vòng nửa tiếng đồng hồ, Lý Lập không thể kịp mang Bào Quang Mẫn về nhà rồi sát hại cậu bé, cho dù đi xe mô tô cũng không kịp.”

“Hay là Bào Quang Mẫn tự bắt xe đến gần nhà Lý Lập?” Phó giám đốc Cao hỏi. “Dù sao thì khoảng cách tuổi tác của họ không lớn, vả lại Bào Quang Mẫn cũng không biết Lý Lập có thù oán với bố mẹ mình.”

“Không thể.” Tôi nói. “Từ nhà Bào Quang Mẫn đi bộ ra đường cái đã mất khoảng mười lăm phút rồi.”

“Hay là Lý Lập hành hung ở gần nhà Bào Quang Mẫn?”

“Cũng không thể.” Tôi nói. “Nạn nhân tử vong vào đầu giờ chiều, khu vực đó rất đông người, chỉ có khả năng là bị sát hại trong nhà mới không bị phát hiện ra.”

Phó giám đốc Cao trầm ngâm suy nghĩ.

Tôi hiểu tâm trạng của phó giám đốc Cao. Một tia sáng mỏng manh vừa xuất hiện đã vụt tắt. Vụ án này mà gặp phải bế tắc sẽ rất đau đầu. Bởi vì hiện trường bị phá vỡ, xác chết thối rữa nghiêm trọng, chúng tôi chưa tìm được bất kỳ manh mối giá trị nào, thậm chí cũng chẳng có cách nào để sàng lọc nghi phạm.

Sau một hồi lâu im lặng, phó giám đốc Cao đứng dậy mở cửa phòng họp, nói: “Các anh đã vất vả cả ngày rồi, cứ về nghỉ đã, chúng tôi sẽ nghiên cứu về bước hành động tiếp theo.”

Chúng tôi cũng biết lúc này dù có ở lại cũng chẳng thể giúp được điều gì nên đều đứng dậy ra về. Có lẽ đúng là tôi cần phải nghỉ ngơi, đặc biệt là cần một chút thời gian để bước ra khỏi nỗi khϊếp đảm của ca khám bệnh hồi sáng sớm, ổn định lại tâm trạng rồi mới có thể xâu chuỗi tình hình toàn bộ vụ án, từ đó tìm ra con đường tắt để phá án. Nếu không, chỉ dựa vào chút ít manh mối vụn vặt hiện giờ, công tác điều tra sẽ không thể nào triển khai được.

“Anh cho rằng,” trên đường quay về, Đại Bảo nói với tôi, “chúng ta hãy thử suy nghĩ đường ranh giới thối rữa trên cổ chân nạn nhân xem sao. Làm rõ được điểm này, không chừng sẽ có một số đột phá.”

Đại Bảo có cùng suy nghĩ với tôi. Thực ra ngay từ lúc bước lên xe, tôi đã suy nghĩ về vấn đề này.