Chương 36: Vụ án thứ 9 - Ác quỷ hiện hình (2)

Hiện trường rất đơn giản, tôi để Lâm Đào ở lại tiếp tục khám nghiệm, đối chiếu và tìm kiếm, còn tôi, Đại Bảo và bác sĩ Đào lên xe đến nhà xác, tiến hành khám nghiệm sơ bộ tử thi.

Khi chúng tôi đến nhà xác, bệnh viện cũng vừa mới chở tử thi đến, nhân viên nhà xác đang chuyển tử thi từ trên xe xuống và làm bảng đeo tay cho tử thi.

Bác sĩ Đào bước lại nhiệt tình chào hỏi, mời thuốc lá các nhân viên nhà xác. Họ đưa thẳng tử thi vào trong phòng giải phẫu.

Vì thường xuyên gặp gỡ trong công việc nên nhân viên nhà xác và bác sĩ pháp y thường khá thân nhau. Nhân viên nhà xác ngưỡng mộ công việc hết sức đặc thù của bác sĩ pháp y, còn bác sĩ pháp y lại ngưỡng mộ mức lương của nhân viên nhà xác.

Thi thể là một người cao tuổi, nằm im lìm trên bàn giải phẫu, tuy trước đó đã được đưa vào bệnh viện nhưng mới chụp CT cắt lớp thì nạn nhân đã qua đời, nên ngoài thao tác cấp cứu và rửa sạch phần mặt, thi thể chưa hề được xử lý hay điều trị. Dù vậy, trên mặt tử thi vẫn còn dính chút máu khô chưa được rửa sạch hẳn. Trên ngực tử thi có băng dính của đầu nối máy điện tâm đồ, còn có tổn thương sau khi tử vong do máy tạo nhịp tim gây nên, trên cổ tay cũng có mấy vết kim nhỏ.

“Tôi đang băn khoăn, trông nạn nhân đâu có to cao, tại sao hai người báo án lại nói nhìn thấy một bóng người rất cao lớn?” Đại Bảo thắc mắc.

“Bình thường thôi mà.” Bác sĩ Đào nói. “Chỗ đấy tối tăm như thế, có ảo giác về bóng người cũng là chuyện bình thường.”

“Yêu cầu phía điều tra tìm hiểu xem vào lúc cấp cứu, khi mở tĩnh mạch nạn nhân, bác sĩ đã tiêm mấy mũi? Còn nữa, đã tiến hành tạo nhịp tim chưa?” Tôi nói.

Đối với bác sĩ pháp y, vết kim đâm trên tử thi là vô cùng quan trọng. Bây giờ tội phạm ngày càng thông minh, rất nhiều tội phạm chọn cách tiêm thuốc để gϊếŧ người, tưởng rằng có thể vải thưa che mắt thánh. Thực ra, phát hiện vết kim tiêm trên tử thi, đặc biệt là vết kim hình thành trước khi chết không có gì khó khăn, nhưng nếu nạn nhân đã từng được bệnh viện cấp cứu thì công việc này sẽ trở nên nan giải. Nếu có cả vết kim của hung thủ và của bác sĩ, bởi vì đều hình thành trước khi chết nên rất khó phán đoán, không biết vết kim nào là của ai. Bởi vậy, cần phải phối hợp chặt chẽ với bộ phận điều tra. Nếu kết quả điều tra cho thấy số lượng vết kim của bác sĩ ít hơn số vết kim trên thi thể, vụ án sẽ có điểm nghi vấn.

“Có năm mũi kim. Đã tiến hành tạo nhịp tim.” Bác sĩ Đào nói. “Hiện nay, cảnh sát khu vực chỗ chúng tôi đều có ý thức bảo vệ chứng cứ nên đã hỏi rất rõ về chuyện này.”

Bởi nạn nhân trong vụ án này là do cảnh sát khu vực đưa đến bệnh viện, vì thế ngoại trừ thiết bị giám sát cá nhân (1), cảnh sát luôn chú ý hỏi han kỹ lưỡng bác sĩ, y tá để nắm bắt toàn bộ quá trình cấp cứu.

(1) Một loại camera nhỏ được cài trên người cảnh sát để giám sát công tác, ghi lại tình trạng hiện trường.

“Đúng là có năm mũi kim thật, kiểu gì cũng không giống một vụ án mạng.” Đại Bảo đếm xong số mũi kim, cầm kẹp cầm máu kẹp lấy phần da quanh vết thương trên trán nạn nhân nhấc lên.

“Vết thương có hình ngôi sao,” tôi nói. “có thể do vật tày hình thù bằng phẳng gây ra, nhưng cũng có thể được hình thành do vật thể có bề mặt lồi hình ngôi sao.”

Nói xong, tôi cầm đèn khám nghiệm chiếu vào bên trong vết thương. Bên trong vết thương chằng chịt cầu nối tổ chức, do da trước trán rất mỏng nên có thể nhìn thấy xương sọ bên dưới. Màng xương hoàn chỉnh, không xuất hiện vết nứt do vật thể lồi gây ra.

“Vết thương có lẽ được hình thành do vật tày có hình dạng bằng phẳng.” Tôi nói. “Ví dụ như đá cuội.”

Bác sĩ Đào gật đầu, nói: “Xét về lý thuyết thì tôi rất đồng ý, nhưng tôi vẫn cảm thấy ít có khả năng cảnh sát lại đá trúng phóc hòn đá có vết máu xuống nước, thế thì trùng hợp quá.”

Tôi không nói gì, tháo lớp găng tay thứ nhất, cầm lấy tấm phim CT chụp khi nạn nhân còn sống đang đặt trên bàn máy bên cạnh phòng giải phẫu xem xét.

Kể từ sau vụ bị thi thể sáp hóa ám mùi vào tay mất mấy ngày trời, lần nào giải phẫu, tôi cũng mang hai lớp găng tay cao su để đề phòng mùi xác thối tấn công. Sau khi đã quen, tôi thấy hai lớp găng tay chẳng gây ảnh hưởng gì tới các thao tác.

Trên tấm phim CT là từng hình ảnh xương chụp cắt lớp, không có tấm nào là bình thường. Sau khi đọc từng lớp một, có thể xác định xương sọ ở phần trán của nạn nhân đã bị vỡ vụn, do màng xương chưa rách và cũng chỉ là gãy xương đơn thuần, càng có thể khẳng định đây là tổn thương hình thành do va đập với vật tày có về mặt bằng phẳng.

Đồng thời, phim CT cũng cho tôi biết, tổn thương ở đầu nạn nhân được hình thành bởi vận động giảm tốc, hay nói cách khác, phần đầu của nạn nhân bị tấn công đột ngột bởi vật tày trong lúc đang chuyển động nên dừng khựng lại, hình thành vết gãy xương và tổn thương dội đối lực tại vị trí đối diện với chỗ xương gãy. Thông thường, tổn thương não ở mức độ này, nếu được chữa trị kịp thời vẫn có thể cứu sống. Nhưng nạn nhân lại một mình hôn mê bên bờ hồ khiến xuất huyết não nghiêm trọng dần, đến mức độ như trong phim CT thì đã vô phương cứu chữa.

“Đúng là trượt chân ngã dẫn đến tử vong.” Đại Bảo tháo lớp găng tay bên ngoài, cầm lấy phim CT, đứng xem dưới ánh sáng rọi qua cửa sổ.

Tôi đeo lại găng tay, cầm cánh tay của nạn nhân lên xem: “Hai bên cánh tay của nạn nhân có một số dấu móng tay, cái này thì khó có khả năng tự gây ra phải không?”

Tôi vừa nói, vừa thử thực hiện trên cánh tay mình, xoay trở đủ các tư thế xem có thể hình thành dấu vết giống như trên cánh tay nạn nhân hay không.

“Đúng là không dễ.” Bác sĩ Đào nói. “Nhưng khó mà xâu chuỗi điểm này với cái chết của nạn nhân được, cũng có thể là trước đó cãi vã xô xát với người nhà rồi bỏ đi, sau đó chẳng may trượt chân ngã chết.”

“Nói cũng đúng.” Tôi nói. “Về lai lịch thi thể, vẫn chưa có manh mối gì phải không?”

“Tôi nghĩ rằng có thể tìm ra được!” Bác sĩ Đào nói. “Lại đây, giúp tôi một tay.”

Xoay lật tử thi mà không để những chất bẩn như vết máu bắn lên người là cả một nghệ thuật, nhưng đây cũng là bài học nhập môn của pháp y. Tôi và bác sĩ Đào cùng di chuyển tử thi đến bên mép bàn giải phẫu, sau đó lật sấp thi thể lại. Vì hiện tượng co cứng tử thi đã xuất hiện, thi thể cứng đờ nên cũng dễ lật hơn nhiều.

“Anh xem, đây là một đặc trưng đấy.” Bác sĩ Đào chỉ vào một hình xăm trên thắt lưng của tử thi.

Thường thì vết xăm chính là một căn cứ quan trọng để tìm kiếm lai lịch thi thể, nhưng đôi khi cũng chẳng thể giúp được gì cho công tác tìm kiếm. Có điều, vết xăm trên thi thể này đã thắp lên trong tôi một hy vọng lớn lao.

Vết xăm là một con cua đang giơ càng cắp lấy một con rết.

“Đã nhìn thấy nhiều người xăm rết rồi, nhưng chưa thấy ai xăm cua cả.” Đại Bảo nghệt mặt ra.

“Chắc nạn nhân họ Tạ hoặc họ Giải (2).” Bác sĩ Đào nói.

(2) Trong tiếng Hán, chữ “Tạ” và chữ “Giải” đều phát âm giống chữ cua.

“Dù sao thì một hình xăm đặc trưng thế này rất dễ khiến người khác chú ý, nên lai lịch thi thể hẳn sẽ được tìm ra dễ dàng.” Tôi tràn đầy tự tin.

Nói xong, tôi lấy từ trong khay dụng cụ ra một cán dao phẫu thuật rồi lắp lưỡi dao vào.

“Anh định làm gì thế?” Bác sĩ Đào hỏi.

“Làm gì ư? Giải phẫu chứ còn gì nữa.” Tôi ngơ ngác trước câu hỏi của bác sĩ Đào.

“Bây giờ chúng ta chưa thể giải phẫu được.” Bác sĩ Đào nói.

“Tại sao kia?”

“Lai lịch thi thể vẫn chưa tìm ra, ý của lãnh đạo chúng tôi là phải tìm lai lịch thi thể trước đã, sau đó trưng cầu ý kiến của người nhà nạn nhân.” Bác sĩ Đào nói. “Nên trước hết phải tìm được nhân thân của nạn nhân rồi tính sau.”

“Tại sao kia?” Lần đầu tiên tôi gặp phải tình cảnh như vậy. “Luật tố tụng hình sự đã quy định rõ, với những thi thể chưa rõ nguyên nhân tử vong, cơ quan công an có quyền quyết định giải phẫu kia mà. Chúng ta có quyền này. Nếu người nhà của nạn nhân không đồng ý giải phẫu thì không được giải phẫu, vậy lỡ hung thủ là người nhà của nạn nhân thì sao?”

“Nhưng luật tố tụng hình sự cũng nói, bắt buộc phải thông báo cho người nhà nạn nhân đến hiện trường.” Bác sĩ Đào tranh luận.

“Trong quy định về trình tự xử lý vụ án hình sự của cơ quan công an có nói, đối với trường hợp thông báo được, hoặc người nhà nạn nhân từ chối đến hiện trường, chỉ cần ghi chú rõ ràng là được!” Tôi rất tự tin với kiến thức pháp luật của mình.

Bác sĩ Đào ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Nhưng tất cả những điều này đều chỉ áp dụng cho vụ án hình sự. Hay nói cách khác, chúng ta phải tìm ra được dấu hiệu tồn tại hành vi phạm tội thì mới có được quyền này.”

“Nhưng cần phải tìm ra nguyên nhân tử vong thì mới xác định được tính chất của vụ việc này chứ.” Tôi nói.

“Điều tra và khám nghiệm hiện trường đều không hề có nghi vấn.” Bác sĩ Đào nói. “Vì thế, để đề phòng sơ suất, lãnh đạo yêu cầu chúng ta phải đợi. Dù sao cũng không vội. Hay là đợi sau buổi họp chuyên án tối nay, tìm hiểu thêm một số tình hình cơ bản, sau đó hãy quyết định, anh thấy thế nào?”

Quả thực là nhiều khi cơ quan công an tự quyết định giải phẫu tử thi đã gây ra nhiều kiện cáo, nói rằng cơ quan công an cướp xác, phá hoại tử thi, không tôn trọng nhân quyền. Để tránh xảy ra hiện tượng này, lãnh đạo công an địa phương muốn kéo dài việc khám nghiệm tử thi cũng là điều dễ hiểu. Hơn nữa, sau khi tử thi được làm lạnh, rất nhiều vết thương không rõ ràng sẽ nổi rõ trên da. Vì vậy, lúc này chưa vội khám nghiệm tử thi cũng là một hành động sáng suốt.

Tôi đồng ý với đề nghị của bác sĩ Đào, cởi bỏ trang phục giải phẫu, đến thành phố Bân Nguyên thuê phòng khách sạn tắm rửa, đợi kết quả điều tra và khám nghiệm từ bộ phận điều tra và phía Lâm Đào.

*

Đúng 7 giờ tối, bộ phận pháp y tập hợp tại phòng họp chuyên án tại trụ sở Công an thành phố Bân Nguyên. Nhóm điều tra viên và nhóm khám nghiệm dấu vết do Lâm Đào dẫn đầu cũng lục tục kéo đến phòng họp.

Tôi quan sát sắc mặt của từng người, trông có vẻ rất nhẹ nhõm, xem ra công việc của họ tiến triển thuận lợi.

Điều tra viên chính thấy mọi người đều đã yên vị, liền vội vã mở đầu bằng chất giọng địa phương đặc sệt: “Thưa giám đốc Triệu và các vị chuyên gia, tôi xin được trình bày trước.”

Giám đốc Triệu Quan Cường gật đầu.

Điều tra viên nói: “Vào lúc 1 giờ chiều, chúng tôi đã nắm bắt được thông tin về nạn nhân, đồng thời cũng lấy được mẫu xét nghiệm ADN trong nhà của đối tượng nghi ngờ là nạn nhân. Vừa nãy phòng ADN đã báo tin, nạn nhân đúng là cư dân của thành phố này, tên là Tạ Cần Công.”

“Tạ Cần Công.” Bác sĩ Đào lẩm bẩm: “Cua cắp rết (3), rất trùng hợp với hình xăm trên cơ thể.”

(3) Trong tiếng Hán, “Tạ Cần Công” đồng âm với cua cắp rết.

Điều tra viên gật đầu, nói tiếp: “Nạn nhân Tạ Cần Công, 53 tuổi, kinh doanh một lò gạch quy mô nhỏ, làm ăn cũng tạm được, một năm kiếm khoảng trăm nghìn nhân dân tệ. Nhưng ông ta không vợ không con, người dân quanh đó đoán già đoán non rằng tại ông ta mắc bệnh tâm thần gián đoạn hoặc bị rối loạn cảm xúc lưỡng cực (4), không ai muốn lấy.”

(4) Một chứng bệnh rối loạn tâm thần dẫn đến cảm xúc biến đổi không ổn định, khiến người bệnh chuyển từ cảm xúc hưng phấn (hưng cảm) sang cảm xúc ức chế (trầm cảm). Bệnh có tính chất chu kỳ xen giữa hưng phấn và ức chế.

“Bệnh tâm thần?” Tôi nói. “Có chứng cứ gì không?”

Điều tra viên đáp: “Điều này có thể khẳng định, tuy không tìm thấy bệnh án liên quan trong bệnh viện tâm thần, nhưng chúng tôi tìm thấy rất nhiều ghi chép của ông ta về việc mua thuốc điều trị chứng rối loạn cảm xúc lưỡng cực.”

Thấy tôi không hỏi gì thêm, điều tra viên nói tiếp: “Theo dữ liệu camera giám sát, chiều hôm qua, nạn nhân vẫn đến hiệu thuốc mua thuốc, sau đó đến nhà con trai ăn cơm.”

“Con trai?” Tôi ngắt lời. “Nhưng anh vừa nói ông ấy không vợ không con cơ mà?”

“Ồ, tôi quên không nói.” Điều tra viên đính chính. “Ông ấy có một người con nuôi tên là Tạ Hào, tiếng là con nuôi nhưng người dân phản ánh rằng anh này được ông ta chăm bẵm từ nhỏ đến lớn, còn cha mẹ đẻ thì chẳng bao giờ dòm ngó đến con. Hiện giờ, lò gạch chủ yếu do anh con nuôi quản lý.”

“Con trai của ông ấy phản ứng thế nào?” Tôi hỏi.

“Rất đau buồn.” Điều tra viên nói, “Tạ Hào nói rằng, tối hôm qua, Tạ Cần Công đến nhà anh ta ăn cơm, sau đó có một số biểu hiện rối loạn tinh thần, nói muốn về nhà rồi bỏ đi luôn, anh ta cũng nghĩ là chuyện bình thường. Đến chiều nay, chúng tôi thông báo với anh ta ông cụ đã tử vong. Buổi tối, Tạ Cần Công khi thì ngủ ở nhà con trai, khi thì ngủ ở nhà mình.”

“Thường thì về nhà mình ngủ.” Một điều tra viên khác mở bản đồ ra, nói. “Nhà của Tạ Hào cách nơi phát hiện ra nạn nhân không xa, khá vắng vẻ. Nhà của Tạ Cần Công cách nhà Tạ Hào hai cây số về phía bắc, cũng rất hẻo lánh. Đoạn đường này không có camera giám sát, vì thế chúng tôi không thể hiểu được vì sao Tạ Cần Công lại đi đến bãi lau ở phía tây nhà họ.”

“Rối loạn tinh thần có thể dẫn đến mất phương hướng.” Lâm Đào lên tiếng. “Chúng tôi phân tích rằng có lẽ nạn nhân bị lạc đường, đi nhầm vào bãi lau. Trong bãi lau lại càng khó xác định phương hướng. Trong cơn tâm thần phát tác, ông ấy đã đến bên hồ đập đầu vào đá, hoặc vì trời mưa đất trơn nên trượt chân, ngã đập đầu.”

“Theo như cậu nói, có thể là do tai nạn hoặc tự sát, nhưng cậu khẳng định là tự mình gây thương tích dẫn tới tử vong à?”

Lâm Đào gật đầu: “Về cơ bản đã có thể khẳng định. Khi phát hiện ra vụ án, nạn nhân vẫn còn sống, không phù hợp với đặc điểm của vụ án gϊếŧ người. Hơn nữa, điều quan trọng nhất là thông qua khám nghiệm dấu vết, chúng tớ đã phục dựng được quỹ đạo di chuyển của nạn nhân và tình trạng hiện trường. Hiện chúng tớ đã có đầy đủ căn cứ để chứng minh rằng nạn nhân tự gây ra tổn thương ở phần đầu.”

“Vậy sao?” Tôi ngạc nhiên kêu lên, hóa ra Lâm Đào đã phát hiện ra một manh mối quan trọng.

Lâm Đào nhìn thấy vẻ kinh ngạc của tôi thì khẽ mỉm cười, hắng giọng, bắt đầu tường thuật lại kết quả khám nghiệm và quan điểm của mình.