Quyển 3 - Chương 3: Vá Thổ Địa

Chỉnh nghe vậy cả mừng, toan nhận lời nhưng bỗng nhiên Nghị khoác tay ngăn lại, đưa mắt nhìn Phúc Nguyên Đại sư, nói: "Chuyện này nói dễ không dễ nói khó không khó, chưa kể chín hạt gạo ngũ sắc rồi thêm bọn Tề Các, có cả lũ, những thứ này liên quan khá mật thiết với nhau, phải chăng đây không phải là chuyện diệt Tề Các bình thường mà là Vá Thổ Địa?"

Chỉnh nghe vậy cũng thoáng chau mày mới sực nhớ đến lục ngữ vá thổ địa. Thổ địa là cách lục lâm chỉ mạch đất cố định tại một vùng, giúp điều hòa nước, độ ẩm, chuyện này liên quan nhiều đến nông nghiệp. Vá thổ địa nghĩa là đất vùng đó biến đổi thổ nhưỡng nặng nề, cần phải cấp tốc tái tạo lại mạch đất như cũ. Chỉ có hai nguyên nhân dẫn đến "thổ địa" bị thủng. Một là do thiên tai vô cùng nặng nề, hai là do có người quấy phá. Nguyên nhân thứ hai có thể do kẻ đó nuôi Tề Các nhằm cho chúng hút sạch dưỡng chất (điều này không giống với chuyện hút dưỡng khí, long khí từ long mạch), khi đất khô kiệt thì nước không thoát được, dần thành mục rữa, ruộng đồng thành ra một cái đầm lầy, khi đó Tề Các mới được gọi là "nuôi lớn". Đến giai đoạn này thì kẻ nuôi sẽ dùng thuật Tróc Bảo, nghĩa là lấy bọn chúng lên, moi phần lõi hình dạng như một trái tim, màu hồng như thịt tươi, thịt này dùng vào rất nhiều chuyện, đa phần đều liên quan đến cách dùng ngoại biến của lục lâm.

Nghị có phần e dè chuyện vá thổ địa vì chưa nắm chắc được tình hình tại những nơi bày trận yểm nuôi bọn Tề Các, thường thì ở đấy luôn được bố phòng chặt chẽ với nhiều lớp miễu vây chặt. Đập miễu bình thường gặp Tề Các thì có thể nhắm mắt đập cũng được, nhưng rơi vào trận yểm như vậy thì lại khó lòng vô cùng, mà đã gọi là vá thổ địa thì thế nào nơi đó cũng được sắp xếp trận đồ hết sức cầu kỳ, gặp phải dân cứng cựa thì trận bày ra phải nói là hết sức khủng khϊếp. Từ đó tới giờ chuyện vá thổ địa kiểu này đều được một nhóm đập miễu làm cùng, nhiệm vụ phải được phân chia kỹ lưỡng, người canh chừng, người diệt Tề Các, tuyệt nhiên không dám manh động. Nay Nghị thấy đi chỉ có hai người, dù bản thân họ đều là dân lão làng có kinh nghiệm vẫn cảm giác rằng còn quá mạo hiểm. Nghị cho rằng, thời buổi này, ruộng đất phần lớn bị bỏ hoang, cây rậm nhiều, âm khí dâng cao, có thể nói là chọn bừa một mẫu đất nào đó để nuôi Tề Các cũng tạm chấp nhận được, đằng này "vườn nuôi" rộng đến một Tổng. Kẻ nào chọn được khu vực nuôi Tề Các rộng lớn đến vậy thì không thể không đề phòng dã tâm của kẻ đó, ấy là chưa hình dung được đạo hạnh của hắn đã cao thâm đến đâu.

Thấy Nghị có vẻ e dè, Chỉnh vẫn biết chuyện đề phòng trong giới lục lâm là thứ bắt buộc, nhưng hiện giờ tình cảnh hết sức cấp bách, nghĩ đến cái chết oan uổng của Tuyết Hoa, Chỉnh đau như xé ruột cho nên đâu thể nói bỏ là bỏ được. Cho là vậy, Chỉnh nói riêng với Nghị: "Chuyện đến nước này, cứ để mình Chỉnh tôi làm, huynh giúp đỡ đến đây thì tôi quý lắm rồi, chuyến này đi coi bộ khó khăn, sao tôi nỡ để huynh phải lâm vào cảnh khốn đốn!"

Nghị vốn là người khảng khái, trọng nghĩa, giúp người luôn giúp đến cùng, dĩ nhiên không đồng ý. Nghị nói: "Huynh chớ hiểu lầm, tôi chỉ không muốn chuyến đi này của mình công cốc mà thôi!"

Phúc Nguyên đại sư khẽ thở dài, nói: "Thực ra chuyện thí chủ đây lo lắng, bần tăng cũng suy nghĩ đến. Chỉ e là nơi đó đúng rằng có kẻ mưu đồ làm chuyện xấu, như vậy quả vùng này đại nạn khó tránh khỏi."

Nói đoạn Đại sư liền quay sang bảo Thanh Đồng và Xích Đồng vào chánh điện, lấy ra một cái hũ gốm, trang trí cảnh Phật tọa thiền, hết sức sống động. Bên trong có chứa thứ bột mịn màu nâu đen, Đại sư đưa cho Chỉnh rồi nói: "Đây là tro xá lợi, dân đập miễu luôn săn tìm nó nhưng ít khi kiếm được đồ thật. Bần tăng tặng cho hai vị để chuyến đi sắp tới được thuận lợi, tiếc rằng bần tăng chẳng thể tự tay giải quyết chuyện này được." Nói xong ông trút ra những hơi thở dài não nề, đủ thấy được tuy đã lập ra Chùa Chìm với mong muốn được lánh đời, nhưng tâm tu hành không cho ông ngơi nghỉ.

Chỉnh và Nghị nghe thế gật đầu đồng ý, nhận chín hạt gạo ngũ sắc cùng tro xá lợi từ Phúc Nguyên Đại sư. Công dụng của tro xá lợi thì dân đập miễu nào cũng biết, thậm chí săn lan trong rừng cũng tìm kiếm thứ này rất nhiều, chỉ cần thoa đều lượng tro khoảng một nắm tay lên vũ khí, ma quỷ dù lợi hại cũng bị dao cùn chặt chém được, pháp lực của thứ tro đó hết sức cao cường không cần phải nghi ngờ. Từ giã trụ trì, cả hai rời khỏi Chùa Chìm, tìm đến chín mẫu ruộng bao bọc địa phận của Tổng (một đơn vị hành chính ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc, tương đương huyện bây giờ). Nghị thấy địa thế nơi này, nên bắt đầu gieo hạt gạo đầu tiên ở mẫu ruộng hướng Tây Bắc vào giờ Tuất ba khắc, sau đó đi một vòng theo chiều kim đồng hồ để thực hiện ở những nơi khác, giờ gieo hai hạt liên tiếp cách nhau tốt nhất nên là tám hai canh lẻ hai khắc, đó đều là những bí thuật truyền miệng của dân lục lâm về cách vá thổ địa, vốn dĩ ẩn chứa nhiều huyền cơ, lúc khác thuận tiện sẽ nhắc đến.

Tề Các là một loại miễu cấp trung, hình thành do oán linh bộc phát từ những xác người được chôn cất bừa bãi ở ruộng đồng, thân thể khi phân hủy thì bị tôm ốc bâu vào gặm nham nhở, hình thù chỉ còn lại nhục thể, đính bên ngoài là rất nhiều ốc bươu mắt người. Loại này thì vỏ ốc tựa như nhãn cầu, gân máu long lên sòng sọc, mỗi con to cỡ lòng bàn tay trẻ em, khỏi nói cũng biết độc hại như thế nào. Ốc bươu mắt người rất ít khi xuất hiện, vì chỉ có những nơi Tề Các sinh trưởng, bọn chúng mới có nơi phát triển. Lục tỉnh khi ấy tuy ruộng đồng bạt ngàn, nhưng cũng phải xét lại giai đoạn chiến loạn thì phần lớn số ấy bị hoang hóa, không ai canh tác, người chết thì có, nhưng cũng rải rác, số xác được chôn lấp tạm bợ ở ruộng đồng cũng không nhiều, cho nên thấy được ốc bươu mắt người phải nói cực kỳ hiếm. Có chăng người bình thường chỉ còn nghe được trong ký ức của các lão niên thời khai hoang lập ấp khi xưa mà thôi.

Chỉnh và Nghị lăn lộn giang hồ lục lâm xưa nay cũng có chạm trán với Tề Các, tuy nhiên chỉ ở những vùng sâu xa và chúng cũng chỉ sinh trưởng một cách tình cờ, loại ấy thuộc hạng tôm tép không đáng kể đến. Lần này Chỉnh thấy lo sợ của Nghị không phải không có cơ sở, nói vậy thì mức độ sẽ ghê hơn nhiều, chưa kể là phải diệt tận chín con. Chỉnh nghĩ đến đó thì thoáng chau mày, tự hỏi trận đồ yểm Tề Các trải rộng trên cả Tổng như vậy thì đạo hạnh của người yểm cao cỡ nào?

Lại nói về chuyện ổ bọn Tề Các, nơi đó thường có oán khí cao, cô hồn dã quỷ do thế tụ về rất đông, trú nấp phía sau hốc cây bụi cỏ, cho nên ở miền Tây trước giờ vẫn rất nhiều chuyện kỳ quái về ruộng đồng mỗi khi lũ về. Có người giăng câu nọ đêm đó dính một con lươn rất to, nhưng chỉ thấy phần đuôi, lần theo đến bụi cỏ, vạch ra thì thấy đầu con lươn là một người con gái tóc dài môi đỏ, nanh nhọn hoắt nhe ra, máu vẫn còn nhểu. Có chuyện khác lại kể rằng đi ruộng mùa lũ, nếu đêm đó trăng tròn, đợi đúng canh ba, bước từ hướng Tây Nam của ruộng đi về hướng Đông Bắc mười chín bước, nhổ một bụi lúa lên thì thấy lúa là tóc, dưới gốc rễ là một cái đầu lâu. Hoặc nếu thấy một hang cua, đốt đèn soi vào chỉ thấy bên trong có con mắt nhìn ra trừng trừng, những chuyện đó phần thì có thật, phần thì do thêu dệt mà nên, kể ra mấy ngày chưa hết.

Hai người đến mảnh ruộng đầu tiên là cuối giờ Dậu (gần tám giờ tối), nơi này là thửa ruộng vẫn còn người canh tác nhưng lũ ngập đến quá gối, bốn bề đều một màu lấp lánh ánh nước dưới trăng, thôn xóm gần nhất cũng cách cả dặm đường, tiếng chó sủa ma nghe vọng lại đều đều một cách nhỏ nhẹ như dế kêu. Cả hai nai nịt gọn gàng, chỉ đem theo những dụng cụ cần thiết, lăm lăm trong tay là cây dao sáng loáng. Chỉnh lấy dây buộc hũ gốm đựng tro xá lợi trước cổ xong rồi quan sát địa thế xung quanh, xem gợn sóng, nhìn các bụi cỏ nhấp nhô để dự đoán những nơi sẽ có miễu. Tuy nhiên cả hai khá bất ngờ, một vùng ruộng đồng bao la, không khí tuy âm u ghê rợn nhưng lại không cảm nhận được âm khí của đám miễu biết hát.

Trước bão lớn trời thường quang đãng, nơi đáng ra âm khí nhiều thì lại chẳng thấy đâu, dĩ nhiên đó đều là điềm chẳng lành, dự đoán biến cố vô cùng khó khăn đang chờ đợi phía trước. Cả hai nhìn nhau, Chỉnh gật đầu ra hiệu sẵn sàng, họ mang một loại giày đi nước đặc chế do hàng thịt làm, có quấn da và đệm bằng những mắt xích nhỏ như giáp lưới, chuẩn bị chu đáo xong rồi mới dám chầm chậm tiến vào ruộng. Làn nước đêm lạnh ngắt, sóng gợn toàn bùn nhão, một mùi hôi thối xộc lên đều đều theo từng bước chân đạp xuống lớp bùn bên dưới.

Lúc này đột nhiên xung quanh im bặt, cả tiếng chó sủa và ếch nhái tưởng như bị hút vào một không gian khác, hai người họ lắng tai chú ý thế nào cũng chỉ nghe được tiếng nước bì bõm. Chỉnh ra dấu dừng lại, quay sang Nghị nói: "Huynh có thấy âm khí đang theo lớp bùn thoát lên trên không?"

Nghị gật đầu đồng ý. Thì ra mùi hôi thối từ nãy giờ họ cảm nhận được chính là âm khí, do chúng bị kìm hãm bởi lớp bùn, mà theo Chỉnh, thực chất là chất dịch của Tề Các tiết ra, hòng lưu giữ âm khí làm thức ăn cho chúng, bùn phủ lên khiến âm khí không thoát ra được, dần dần cô đọng. Khi họ dẫm lên lớp bùn, làm âm khí thoát ra, cả hai biết lúc này bọn miễu biết hát mới đánh hơi được, sẽ rục rịch tấn công. Tức thì, tay cầm dao đã vào thế thủ, ánh mắt như cú vọ, đảo liên hồi, họ quan sát từng thay đổi nhỏ nhất của cánh đồng. Không cần phải đợi lâu, Chỉnh kêu lên: "Nhìn dưới nước!"

Nghị vừa đưa mắt xuống, đã thấy sau lớp gợn sóng lấp lánh là cả ngàn con mắt đỏ lòm phát sáng như lân tinh nhìn chòng chọc vào họ. Vừa sau đó, những ánh mắt đó phóng thẳng lên, lao ra khỏi mặt nước, hiện hình là những con cá lóc, con nào cũng đều to như bắp đùi người lớn, hai mắt đỏ như máu, hàm răng lởm chởm sắc bén. Từ trên cao nhìn xuống, cánh đồng như sôi sục lên, nước bắn tung tóe do những con quái ngư, cả trăm con lao đến cùng lúc. Thân thủ Chỉnh và Nghị được đẩy lên cực hạn, quả đúng như những gì lục lâm đánh giá, cả hai đều thuộc loại đại cao thủ, cử động không có một chút thừa, điểm yếu lại càng không có. Giữa một rừng "tên" cá lao đến, họ uyển chuyển như đang múa một điệu múa chiến thần, né tránh và vung dao đánh trả tới tấp. Xác cá đứt ra rơi lõm tõm nghe như vũ bão tràn đến, máu đỏ nhuộm cả một vùng nước, đặc quánh và hôi kinh khủng.

Đàn cá này vốn dĩ là cá đồng bình thường, loài cá lóc, sống trong bùn, mà bùn lại là thứ Tề Các dùng chứa âm khí, tử khí, dĩ nhiên chúng sớm chẳng còn là cá thường nữa. Vừa thấy âm khí lưu giữ bị xâm lấn, có thể chúng bị Tề Các tác động, biến thành lũ quái ngư đói mồi khát máu, liền lao lên tấn công bọn Chỉnh và Nghị. Cũng may hai người đã sớm chuẩn bị sẵn giày đi nước, có lớp giáp lưới quấn quanh nên không sợ bị đàn cá quỷ cắn phần chân, chứ nếu không, chỉ bị ngoạm một cái có thể tan xương nát thịt, chết vô cùng đau đớn.

Nhận thấy cứ đánh trả thế này không ổn chút nào, gϊếŧ xong cả ngàn con thì thể lực họ chắc chắn suy giảm cực độ. Nghĩ vậy, Chỉnh liền bảo Nghị bọc lót, bản thân mình thì tung người lên cao, trong khoảnh khắc liền bộc phát Thiên Đăng Ẩn Quang, ánh sáng tựa như mặt trời mọc giữa đêm đen, làn nước phản chiếu lại càng khiến nó lấp lánh uy dũng hơn nữa, xem ra thì thấy cả cánh đồng có đến phân nửa đã bị đổi sang màu đỏ của máu. Khỏi phải nói cũng biết đám cá chẳng chịu nổi thứ Chú cấp Sát do Nghị vừa thi triển, lập tức quỷ khí tan biến, liền hiện nguyên hình chỉ còn những xác cá khô đét, mục rữa.

Như đã biết, Thiên Đăng Ẩn Quang dĩ nhiên là một bài Chú vô cùng lợi hại, huống hồ gì Chỉnh còn đưa nó lên hẳn cấp Sát, cấp cao nhất của Chú thì pháp lực không cần phải tranh cãi. Vấn đề nằm ở chỗ, Chú này "sát" không toàn diện. Nghĩa là trong vòng cả dặm, những loại miễu tôm tép sẽ nhất loạt thăng thiên tiêu biến, tuy nhiên những con có ma lực cao cường thì không bị thương thế gì đáng kể, ngược lại còn mò đến để "đập" lại người thi triển, đó gọi là "lạy ông tôi ở bụi này", vậy nên lục lâm rất kiệm khi sử dụng nó. Nhưng trong tình huống vừa rồi, Chỉnh vốn dĩ đã dự liệu được chuyện đó, ngay khi vừa đáp xuống đã vào thế tấn, tụ khí hồi phục khí lực, Nghị lập tức nhận vị trí quan sát phòng thủ. Cả hai tiến lùi phối hợp có thể gọi là châu liền bích lạc, ăn ý vô cùng.

Như cả hai đoán trước, Thiên Đăng Ẩn Quang đã đem đến những cái miễu biết hát "cứng" hơn. Mặt nước vẫn còn những con sóng tạo ra từ xác cá, đã thấy từ phía xa lao đến những thứ đen ngòm, xé nước như cá mập, tốc độ kinh người. Nghị lập tức kêu lên, bảo Chỉnh dùng đến Đại Hắc Thiên ngăn cản, vừa thi triển xong thì thứ màu đen đó cũng vừa trườn tới. Đại Hắc Thiên là Chú có khả năng cản phá, làm suy yếu miễu biết hát trong nhất thời, công dụng để "câu giờ" tìm đối sách, ứng dụng trong trường hợp này là vô cùng hợp lý.

Hai bên va chạm với nhau khiến nước bắn tung tóe, chấn động lan tỏa ra không khí khiến cỏ cây cũng phải dao động. Không có Đại Hắc Thiên bộc phát ở cánh tay, cả hai có lẽ đã trọng thương từ cú sấn trời giáng đó. Những thứ đen đen kia lặn xuống, bùn loang ra bốc lên mùi thối xám hồn. Chỉnh và Nghị đâu lưng thủ thế, tay phải cầm dao, tay trái đã sẵn sàng phát Chú. Chỉnh nói: "Nếu tôi đoán không lầm, thứ vừa nãy chính là "bao tử đất", huynh có đối sách gì không?"

Nghị thở hắt ra, nói: "Nhất thời chưa có, nhưng nếu cứ có hai ba lớp miễu thế này thì chắc chắn chưa sờ đến da Tề Các thì tôi với huynh thành cái xác nham nhở rồi, chúng ta phải tìm cách phá trận trung đồ!"

Lúc nãy Chỉnh có nhắc đến "bao tử đất", kỳ thực là thứ gì? Thực ra đó chính là bọn chuột đồng. Vậy tại sao lại có cái tên như vậy? Chuột đồng là một loài vật có sức tàn phá kinh khủng, thậm chí khi lên cơn đói, đồng loại chúng cũng ăn nốt. Do đó, hễ có xác động vật hay con người chết ở ruộng, bọn chúng lao đến cắn xé, ăn đến khi xương cũng không toàn vẹn, người không để ý dễ đinh ninh rằng đất ở ruộng mình là đất dời thây, nhưng chỉ là do chuột ăn hết mà thôi. Lục lâm dùng lục ngữ "bao tử đất" để chỉ đám chuột thành tinh. Chuột đồng thành tinh có nhiều nguyên nhân, có thể do gặp trận dịch, gia súc gia cầm chết nhiều, chúng ăn thịt ngày qua ngày thành ra có tà tính, trở nên hung dữ, sau đó tấn công cả con người. Hoặc có thể, như ở trận yểm này, xác người chôn xung quanh hẳn rất dày đặc, thế nào chúng chẳng ăn những cái xác đó, cho nên nhiễm âm khí cực nặng, thành tinh là không tránh khỏi. Bao tử đất có thân thủ nhanh nhẹn, răng hoặc tứ chi đều có thể gây ra đòn chí mạng, thậm chí chúng dùng đầu húc cũng có thể khiến một người khỏe mạnh bị vỡ sọ mà chết, cho nên săn lan hoặc đập miễu khi gặp phải loại này thường thì sẽ tốn thời gian hơn. Ma tính trong chúng cao, sát ý tỏa ra ghê gớm, một đòn Thiên Đăng Ẩn Quang khó lòng mà diệt được, bọn Chỉnh và Nghị nhất thời bị rơi vào giữa vòng vây của đám bao tử đất.

Vậy trận trung đồ là thế nào? Lục lâm cũng có phương pháp bày trận, tùy vào trận của hàng thịt sẽ khác trận của hàng rong, trận của săn lan hoặc đập miễu khá giống nhau, nhìn chung thì cách làm của lục lâm vốn dĩ hoàn toàn đi theo con đường riêng, chẳng theo cách của các đạo sĩ hay phương thuật gia khác. Tuy cách làm của các nhánh trong lục lâm có đôi chút không giống nhau, nhưng đều có ba lớp, gọi là ngoại đồ, trung đồ và nội đồ. Nội đồ thực ra chỉ là tờ giấy có ghi một số câu chú, vẽ hình sao và hộ pháp, ngoại đồ hiểu nôm na như là lớp cảm biến, hễ có người vào trận thì cảnh báo, còn trung đồ là nội dung cách thức của trận yểm. Nghị cho rằng muốn phá trận này chỉ còn cách tìm được nơi đặt trung đồ rồi phá hủy nó thì mới cắt được làn sóng miễu biết hát. Mặc dù vừa nãy Chỉnh có tung ra chú Thiên Đăng Ẩn Quang, tuy nhiên nếu như gặp phải trường hợp phá trận trung đồ rồi mà miễu còn ập đến quá nhiều, về cơ bản hai người bọn họ có một cách có thể thoát được đó là một người sẽ bộc phát tám, chín phần công lực vào một bài Chú tất sát rồi người còn lại lãnh nhiệm vụ diệt Tề Các, nghe qua thì dễ nhưng ngoài đại cao thủ thì ai dám nghĩ đến.

Chỉnh nghe Nghị nhắc đến việc phá trận trung đồ thì lên tiếng: "Nãy tôi cũng có nghĩ, huynh có thể cầm chân bọn bao tử đất giúp tôi giây lát, tôi sẽ tìm ra nó sớm thôi."

Sự tình lúc ấy thực ra ập đến vô cùng nhanh chóng, bọn bao tử đất vừa lủi xuống bùn thì bắt đầu chia ra hành động. Nghị cũng đoán được, lập tức đưa dao ngậm vào miệng, hai tay chập lại, phát ra một thứ mà khiến Chỉnh dù đang tìm cách phát hiện ra trung đồ cũng phải quay sang nhìn đầy trầm trồ kinh ngạc. Từ chỗ Nghị đứng, một luồng pháp khí màu vàng cam phát ra mãnh liệt, đám bao tử đất từ dưới sình vừa phóng lên định tấn công, vừa chạm phải luồng sáng lập tức kêu ré lên đầy đau đớn. Thì ra Nghị luyện được một Hộ Pháp, Thiên Thủ Quan m, đây là Hộ Pháp được Mạc Hải Vinh sáng tạo ra cách luyện trong trận đánh với Trương Thiên Quảng năm xưa. Hộ Pháp này chủ về kiềm tỏa, khắc chế hầu hết loại yêu khí quỷ dị, pháp khí bao trùm kín kẽ, không có sơ hở, bọn bao tử đất không còn cách nào khác, chỉ chạy vòng quanh chờ đợi sơ hở là lao vào tấn công. Do pháp lực của Hộ Pháp này quá cao, đồng nghĩa với khí thoát ra cũng rất lớn, đạo hạnh cao cường như Nghị e cũng chỉ cầm cự được năm mươi phút là cùng.

Chỉnh cũng hiểu được điều ấy, không thể chậm trễ thêm nữa, ngay lập tức thi triển một thứ cũng ngang tầm - Đề Thính Niệm Câu. Trong thần thoại Phật Giáo có nhắc đến Địa Tạng Vương Bồ Tát, ngài nguyện chưa chứng Phật Quả nếu địa ngục chưa trống rỗng, nguyện cứu độ tất cả chúng sanh. Ngài có một thần thú, gọi là Đề Thính, hình dạng tựa kỳ lân, trong Tây Du Ký có nhắc đến khi phân biệt Ngộ Không thật giả. Đề Thính có năng lực phân biệt và phát hiện vật thể, miễn là nó nằm trong lục đạo. Tuy nhiên, Đề Thính Niệm Câu thực ra không có năng lực cao cường đến nhường ấy, chỉ là giúp người thi triển có khả năng cảm nhận vật thể trong màn đêm hoặc trong tình trạng khó quan sát được. Nó không phải là một trong tứ diệt ma của đập miễu, chỉ đơn thuần là một loại bí thuật hay bí kíp võ công, cần những người có ngộ năng nhất định để thi triển. Người dùng Đề Thính Niệm Câu phải khai thông được những cơ quan cảm nhận nhỏ xíu nằm dưới da, nhờ đó ghi nhận được những biến đổi nhỏ nhất trong không gian có phạm vi nhất định.

Quả nhiên Đề Thính Niệm Câu vô cùng hữu dụng trong tình huống như thế này, khi bị bọn bao tử đất vây quanh, bốn bề đều là ruộng đồng ngập nước, khả năng cảm thụ được đẩy lên cực hạn, Chỉnh nhắm mắt liền phát hiện ra có một nơi mà âm khí xoáy lại. Mười phần chắc chín đó là nơi đặt trận trung đồ, Chính quay sang nói với Nghị cố gắng đánh lạc hướng bọn bao tử đất, chỉ cần mười giây, chuyện còn lại Chỉnh sẽ dự liệu. Nghị gật đầu đồng ý, ngay lập tức Chỉnh dồn sức vào chân, thân thủ có dịp được thi thố lần nữa, tung hết chạy giữa đồng ruộng ngập nước quá gối mà lại nhẹ nhàng như lướt, thực ra đó cũng là một loại tuyệt kỹ như khinh công mà thôi.

Bọn bao tử đất thấy Chỉnh lao ra khỏi vòng kiềm tỏa của Thiên Thủ Quan m, cho rằng đó là miếng mồi ngon, toan quay sang đuổi theo cắn xé nhưng đâu ngờ rằng Nghị vừa thu hồi Thiên Thủ Quan m thì tung ra thêm Đại Hắc Thiên. Một đợt pháp khí khác thốc tới khiến bọn bao tử đất co rúm, chạy loạn xạ bất định. Chỉ cần có thế, Chỉnh tăng tốc, vυ"t một cái đã đến sát nơi đặt trận trung đồ. Đó là một gò mả không cao lắm, xung quanh phủ đầy cỏ cao, nhìn từ xa thì khó mà phát hiện được bằng mắt thường. Chỉnh dồn pháp khí vào nắm đấm, tung ra một quyền uy lực vô song, đánh tan cái gò mả giả đó, bên trong đúng là có bày trung đồ của trận yểm.

Trận yểm bị vỡ, âm khí của trận mất kiểm soát, lập tức lung lay mất liên kết với ngoại đồ và nội đồ, từ trong gò tuôn ra một luồng khói đen quái dị, theo trận gió thổi ngang mà tiêu biến đi cả. Phía của Nghị, bọn bao tử đất cảm thấy đến hồi nguy khốn, liền lủi xuống sình mà trốn, Nghị vì không muốn hao tổn thêm nguyên khí nên cũng chẳng truy sát bọn ấy làm gì. Chỉnh vừa phá trận xong, chưa kịp định thần lại để quay về hội với Nghị thì biến cố lại ập đến. Mặt nước xung quanh gò sôi lên ùng ục, không phải do nóng lên, mà do thứ chất dịch gì đó trào ra từ bên trong khiến Chỉnh phải nhăn mặt. Mùi hôi tựa như đang đứng giữa một núi xác chuột chết, Chỉnh đoán chắc thứ sắp xuất hiện là Tề Các. Nghị thấy bên phía bạn hữu có biến cũng hiểu chuyện, vội chạy đến tiếp ứng.

Gò đất bỗng nhiên nhô lên cao, như có thứ gì nằm bên dưới sắp trồi dậy, Chỉnh quay sang nhìn Nghị, cả hai có thể nói đều gần tới giới hạn chịu đựng của cơ thể, sau những lần vận khí khiến cơ bắp như rệu rã, mồ hôi tuôn ra gần hết, giờ chỉ còn đợi một đòn quyết định mà thôi. Quả nhiên, chỉ chốc lát sau, từ gò mả phun lên một chất dịch bầy nhầy màu đen đặc, trông như hắc ín nấu sôi, khói bốc nghi ngút. Chất dịch phun lên mỗi lúc một nhiều, chúng không tràn ra mà tụ lại một chỗ, tựa như một khối cầu. Thứ này không phải gì khác mà chính là Tề Các. Khác với suy nghĩ của cả hai, con này quả đúng được nuôi đến một mức độ khó tin. Bình thường chúng chỉ to cỡ con chó, nhưng lần này bọn Tề Các hết sức quái dị, to như ba con trâu gộp lại, làm tổ nằm sâu dưới lớp sình ở ruộng, phá hủy thế đất, khiến nước ứ đọng không rút đi được.

Một quả cầu khổng lồ, bao phủ xung quanh là những con ốc bươu mắt người to như trái bưởi, nhãn cầu trên vỏ ốc nhìn chăm chăm hai người bọn họ khiến họ cảm giác được sự rờn rợn len lỏi từng ngóc ngách tâm can. Chỉnh thấy cần thiết phải chiếm thế thượng phong, không cần hội ý với Nghị, liền lao đến vung đòn tất sát, Nghị cũng hiểu ý liền theo sau hỗ trợ. Tề Các có những sợi râu dài, mũi nhọn cứng như sắt thép, chúng vυ"t nhanh như quật roi, đánh tới tấp vào hai người. Trận chiến ác liệt diễn ra với tốc độ mà người thường khó theo kịp, chỉ thấy dưới ánh trăng, làn nước trên ruộng đồng bát ngát loang loáng ánh vàng, nước văng tung tóe. Những bài Chú thỉnh thoảng phát sáng, chớp lên rồi vụt tắt như sét xẹt ngang trên mặt nước, từ đó lan tỏa ra những luồng pháp khí mạnh đến bạt vía. Chỉnh và Nghị tuy chỉ mới biết nhau qua một dịp đập miễu ở Phú Quốc, lần này đi với nhau chưa bao lâu nhưng hành động lại vô cùng hiểu ý nhau, tiến lùi, công thủ hết sức nhịp nhàng.

Có lẽ do trình độ đạo hạnh ngang ngửa kẻ chín kẻ mười, cộng với kinh nghiệm lăn lộn trong giới nhiều năm nên chẳng cần phải nói ra nhiều lời mà vẫn bảo đảm ăn ý hiệu quả. Lúc nãy giao chiến với đám quái ngư và bao tử đất, hai người còn e sợ nhiều thứ nên vẫn còn không đánh hết sức, nay thì đã phá trận, mục tiêu cuối cùng cũng xuất hiện, Chỉnh và Nghị đánh với Tề Các một lúc thì bắt bài được nó, chiêu thức vung ra đã thoải mái hơn, mười chiêu tung ra thì chính xác tuyệt đối, chiêu nào cũng khiến Tề Các lãnh trọng thương. Cũng phải kể đến sự trợ giúp đắc lực của tro xá lợi, nhờ nó mà họ vung dao chém một thôi một hồi, râu Tề Các đã đứt gần hết. Trong một khoảnh khắc, Chỉnh thấy Tề Các có sơ hở liền vυ"t người lao đến, tụ Chú vào lòng bàn tay, gồng hết sức tung mạnh một chưởng vào thẳng trung tâm quả cầu nhầy nhụa kia, xuyên tới tận tâm.

Con quỷ kỳ quặc kêu lên những tiếng ré ré, chất dịch sôi lên ùng ục, vỏ ốc dần rơi ra, dịch trên người nó cũng chảy xuống hết, để lộ một cục thịt màu đỏ đang bị Chỉnh bóp chặt. Cục thịt cũng có hình khối cầu, có lẽ như đây là tim của Tề Các, tay Chỉnh bóp chặt lại khiến nó rã ra như tro bụi. Mọi chuyện sau đó được tiến hành hết sức khẩn trương: Nghị gieo hạt gạo vào nơi Tề Các vừa chui lên, lấp đất lại rồi tụng kinh Pháp Hoa đủ một trăm lẻ tám lần thì thấy dưới đất đêm lên một chồi mạ non xanh mơn mởn, công việc đến đây có thể coi như xong, việc tiếp theo là làm điều tương tự ở tám mẫu ruộng khác.

Hai người bọn họ nhanh chóng di chuyển đến địa điểm tiếp theo, trên đường đi không quên rút ra kinh nghiệm đối phó, cho nên những lần sau thiết nghĩ chẳng phải kể đến dài dòng, mọi chuyện đều diễn ra hết sức thuận lợi. Tuy nhiên, dễ thì dễ thật, nhưng lại rất tốn thời gian, mất đến ba đêm họ mới hoàn thành được chín mẫu ruộng, ai cũng thấm mệt nhưng tâm trí hết sức phấn khởi, tạm thời chẳng kêu than mệt mỏi, liền chạy đến Chùa Chìm tìm Phúc Nguyên đại sư. Trong lúc quay về, có một câu hỏi không ai hỏi ai, đó là thế lực nào đã kỳ công bày ra một trận yểm giống nhau ở chín nơi như thế, mục đích làm thủng thổ địa ở vùng này để làm gì? Suy nghĩ hồi lâu vẫn không trả lời được, Chỉnh và Nghị đều bỏ qua, ai cũng háo hức khi nghĩ đến việc thu được hai pháp bảo vô giá đó, nhất là Chỉnh.

Tuy nhiên vừa mới khai quan Vong Hồn Gia Trú Thiên, Chỉnh và Nghị hết sức bàng hoàng: một luồng quỷ khí kinh khủng xộc thẳng ra, âm phong thốc tới làm hoa cả mắt, nhất thời không phân định được thần khí Chùa Chìm. Cả hai xông vào, chỉ thấy khắp nơi lửa ma cháy phừng phừng, chánh điện trở thành ngọn đuốc lớn, dưới sân là xác của Thanh Đồng và Xích Đồng bị đập nát bét, Thiết Tiên Sát và Kim Cang Chùy, hai pháp khí uy dũng vô song cũng vỡ tan tành. Phía xa xa, Phúc Nguyên đại sư nằm thoi thóp dưới đất, Chỉnh vội chạy đến đỡ dậy, hỏi han sự tình, ông ta thổ ra ngụm máu, chẳng nói được gì nhiều, lắp bắp: "Không giữ được pháp bảo, hai vị mau chạy đi." rồi cũng phiêu tán hồn phách, hóa thành tro bụi, Vong Hồn Gia Trú Thiên bắt đầu chao đảo, tựa như sắp biến mất đến nơi.

Lúc này từ chánh điện, một người phụ nữ tóc đen dài óng ánh, khuôn mặt toát lên vẻ đẹp lạnh lùng tàn độc bước ra, lửa ma cuồng nộ tựa như không thể chạm vào một sợi tóc, người phụ nữ bước đi chậm rãi, hai tay cầm Xuyên Giang Thổ Long Ngọc và Kim Ô Linh nhìn bọn Chỉnh và Nghị bằng nửa con mắt.