Chương 33

Sau khi đóng rèm Levolor ở cửa sổ lại, tắt đèn, tôi đi đến tủ ngăn kéo đặt gần giường. Trong căn phòng đơn này có thể tìm thấy mọi thứ ở gần giường, kể cả tràng kỷ và lò vi ba.

Ở ngăn kéo cuối của cái tủ, tôi cất bộ mền gối dự trữ duy nhất của mình.

Dưới bao gối, tôi tìm thấy khăn trải giường đã ủi thẳng thớm và xếp gọn gàng.

Tuy chắc rằng tình hình đáng để hi sinh bộ mềm gối xịn nhưng tôi vẫn tiếc phải bỏ cái khăn trải giường đó. Mền gối bằng vải bông gia công khéo đâu có rẻ, và tôi còn hơi dị ứng với rất nhiều loại sợi vải tổng hợp thường dùng may những mặt hàng này.

Vào phòng tắm, tôi trải tấm khăn ra sàn.

Đã chết queo nên cần gì quan tâm đến rắc rối của tôi, chẳng thể trông mong Robertson có thể khiến việc tôi làm dễ dàng hơn; thế nhưng, tôi ngạc nhiên khi gã không chịu để bị lôi ra khỏi bồn tắm. Đây không phải lực phản kháng chủ động của địch thủ có ý thức mà là sự chống cự thụ động của xác chết thẳng đơ.

Gã cứng ngắc và khó xoay chuyển như một chồng tấm ván đóng chung vào góc nghiêng kì quái.

Bất đắc dĩ, tôi đặt tay lên mặt gã. Gã lạnh hơn tôi tưởng.

Có lẽ cần điều chỉnh hiểu biết của tôi về những sự kiện trong đêm. Theo một cách không cân nhắc, tôi đã đặt ra những giả định mà tình trạng của Robertson không xác thực điều đó.

Để biết sự thật, tôi phải khám nghiệm gã kỹ hơn. Vì gã nằm úp mặt trong bồn khi tôi phát hiện ra, trước lúc tôi lật gã lên nên giờ tôi cởi nút áo gã ra.

Trong tôi trào lên nỗi ghê tởm và ác cảm, tôi đã lường trước điều đó nhưng chưa chuẩn bị tinh thần cho cảm giác ghét cay ghét đắng cái hành động gần gũi gây ra cơn buồn nôn.

Mấy ngón tay tôi đầm đìa mồ hôi. Những nút áo bề mặt như ngọc trai cứ trơn tuột đi.

Tôi liếc nhìn gương mặt Robertson, cảm giác ánh mắt trợn trừng của gã chuyển hướng tập trung từ cảnh tượng nào đó tận thế giới bên kia sang đôi tay lóng ngóng của tôi. Dĩ nhiên vẻ mặt bàng hoàng và hãi hùng của gã không thay đổi, và gã tiếp tục nhìn chăm chăm vào thứ gì đó nơi âm phủ chia cách thế giới này với thế giới kia.

Môi gã hơi hé mở, như thể bằng hơi thở cuối cùng, gã chào đón Tử thần hay thốt ra lời cầu xin không được đáp lại.

Nhìn mặt gã chỉ khiến nỗi bất an của tôi càng tệ hơn. Khi hạ thấp đầu, tôi hình dung cặp mắt gã lần theo hướng di chuyển sự chú ý của tôi sang mấy cái nút áo ngoan cố. Nếu cảm giác một luồng hơi thở hôi thối phả lên trán, chắc tôi sẽ hét lên, nhưng không lấy đó làm ngạc nhiên.

Chưa tử thi nào khiến tôi rùng mình dữ dội như thi thể này. Đa phần, những người chết mà tôi có mối liên hệ đều là hồn hiện lên, và tôi thừa biết vẻ nhếch nhác về mặt sinh học của cái chết.

Lần này, tôi khổ sở với mùi hôi và cảnh tượng bắt đầu thối rữa thì ít mà khó chịu do những điểm quái dị trên thân thể người chết thì nhiều, chủ yếu là nét đặc trưng giống loài nấm tơi xốp bộc lộ rõ khi gã còn sống, và còn bởi đam mê bất bình thường của gã, thể hiện ở những xấp tài liệu, với việc tra tấn, gϊếŧ người tàn bạo, chặt chân tay, chém đầu và ăn thịt người.

Cởi xong cái nút cuối cùng, tôi banh áo gã ra.

Vì gã không mặc áo may ô bên trong nên lập tức tôi thấy ngay tình trạng tím bầm hiện rõ. Sau khi chết, máu lắng qua các mô xuống những điểm dưới cùng trong cơ thể, khiến những vùng đó có biểu hiện tím bầm trầm trọng. Bộ ngực bèo nhèo và cái bụng phệ của Robertson vằn vện, xỉn màu và ghê rợn.

Da lạnh ngắt, người cứng đờ, sự bầm tím rõ rệt cho thấy gã đã chết không phải cách đây một hai tiếng mà lâu hơn nhiều.

Sức nóng trong căn hộ của tôi đã đẩy nhanh tiến trình phân hủy cái xác nhưng không đến mức này.

Rất có khả năng, tại nghĩa trang nhà thờ St. Bart, khi Robertson làm động tác khiếm nhã lúc tôi từ trên tháp chuông nhìn xuống, gã đã hết là người sống mà thành ma hiện hồn.

Tôi cố nhớ xem Stormy có thấy gã không. Khi ấy nàng đang khom người lấy phô mai và bánh quy trong giỏ mây ra. Tôi vô tình hất chúng văng khỏi tay nàng, rơi vung vãi ra lối đi hẹp…

Không. Nàng không thấy Robertson. Lúc nàng ngẩng lên và tựa lan can ngó xuống nghĩa trang, gã đã đi mất.

Giây lát sau, khi tôi mở cửa chính của nhà thờ và bắt gặp Robertson đang đi lên mấy bậc thang thì Stormy đứng phía sau tôi. Tôi đóng sập cửa và hối hả kéo nàng ra khỏi tiền sảnh, đi vào gian giữa, hướng đến trước bệ thờ.

Trước khi đến nhà thờ St. Bart, tôi đã thấy Robertson hai lần ở chỗ Ozzie “bé” tại Jack Flats. Lần đầu, gã đứng trên vỉa hè trước ngôi nhà, lần thứ hai ở sân sau.

Không lần nào Ozzie ở vào thế có thể chứng thực kẻ viếng thăm ấy là một người có thật, còn sống.

Từ chỗ nằm trên bậu cửa sổ, Terrible Chester đã thấy gã này ở hàng rào trước nhà và phản ứng gay gắt. Nhưng điều ấy đâu có nghĩa Robertson xuất hiện tại đó bằng xương bằng thịt.

Rất nhiều dịp, tôi chứng kiến chó mèo có phản ứng đối với sự hiện diện của linh hồn, dù chúng không thấy ông kẹ. Thông thường động vật không phản ứng bằng kiểu dữ dội mà chỉ theo một cách tinh vi khó thấy; chúng dường như không mặn mà với các hồn ma.

Hành vi thù địch của Terrible Chester có lẽ là phản ứng không phải đối với việc Robertson là ma hiện hồn mà nhằm vào sự xấu xa toát ra không dứt nơi gã, đặc trưng của gã lúc còn sống lẫn khi đã chết.

Bằng chứng cho thấy lần cuối cùng tôi thấy Robertson còn sống là khi gã rời ngôi nhà ở Camp’s End, ngay trước lúc tôi cạy khóa, vào trong và phát hiện căn phòng tối đen.

Gã ám tôi từ lúc ấy, đầy tức tối. Như thể đổ lỗi cho tôi về cái chết của gã.

Tuy bị gϊếŧ trong căn hộ của tôi nhưng chắc hẳn gã biết tôi không phải kẻ bóp cò súng. Đối mặt với tên sát nhân, gã bị bắn từ khoảng cách không quá vài phân.

Gã và tên sát nhân làm gì trong nhà tôi, tôi không thể hình dung. Tôi cần thêm thời gian và tình hình yên ổn hơn để suy nghĩ.

Chắc bạn nghĩ linh hồn giận dữ của gã trốn trong phòng tắm hay gian bếp nhà tôi, đợi tôi về, hăm hở hù dọa và quấy rối tôi như lúc ở nhà thờ. Bạn nhầm rồi vì bạn đã quên những linh hồn chưa yên nghỉ còn vất vưởng tại thế giới này vì họ không chấp nhận sự thật rằng họ đã chết.

Theo kinh nghiệm đáng kể của tôi, điều họ ít muốn làm nhất là quanh quẩn bên thi thể chính mình. Không gì gợi nhớ bi đát hơn về sự qua đời của một người bằng cái xác mục nát của người đó.

Trước thân xác không còn sự sống của chính mình, các linh hồn cảm nhận thêm mãnh liệt sự thôi thúc cần hoàn tất mọi việc nơi thế giới này và đi tiếp sang thế giới bên kia, một điều ép buộc mà họ kiên quyết cưỡng lại. Có thể cuối cùng Robertson sẽ ghé thăm nơi lìa đời của gã nhưng phải đến khi xác gã đã được đem đi và mọi vết máu đã được tẩy sạch.

Điều đó tiện cho tôi. Tôi không cần trò la ó rùm beng kết hợp với chuyến thăm viếng của một linh hồn giận dữ.

Vụ cố ý hủy hoại phòng để đồ thờ tại nhờ thờ St. Bart không phải việc làm của người sống. Hành động tàn phá đó được thực hiện bởi một hồn ma tà tâm và điên cuồng theo đúng kiểu yêu tinh.

Trước đây, tôi đã mất một dàn nhạc mới, một cây đèn, một máy radio có đồng hồ, một cái ghế đẩu cao đẹp đẽ và vài cái đĩa khi một con yêu như thế nổi trận lôi đình. Đầu bếp phục vụ thức ăn nhanh không đủ sức nghênh tiếp những vị khách đó.

Đây là một nguyên do vì sao đồ đạc trong nhà tôi là phế phẩm của cửa hàng giá rẻ. Càng có ít chừng nào thì càng mất ít chừng đó.

Tôi xem xét tình trạng tím bầm trên bộ ngực bèo nhèo và cái bụng phệ của Robertson, nhanh chóng đưa ra suy luận đã đề cập ở trên và cố cài nút áo gã lại mà không nhìn thẳng vào vết đạn. Sự hiếu kì không tốt đã thắng thế.

Trên bộ ngực thâm tím mềm nhũn, lỗ thủng nhỏ nhưng tả tơi, ươn ướt, và kì lạ là tôi không lập tức che nó lại nhưng cũng không muốn nhìn kỹ hơn.

Cơn buồn nôn bò lê trên thành dạ dày của tôi và trườn mỗi lúc một nhanh hơn. Tôi cảm giác như thể mình trở về năm bốn tuổi, mắc phải trận cúm nguy hại, phát sốt và là người đang nhìn chòng chọc xuống ruột gan của thi thể chính mình.

Vì bấy nhiêu thứ bừa bộn cần dọn sạch đã đủ quá rồi, chẳng cần tái hiện vụ nôn mửa cuối cùng đi vào lịch sử của Elvis nên tôi nghiến răng, trấn áp thức ăn trong bụng và cài hết nút áo Robertson cho xong.

Chắc chắn tôi biết cách xem xét tình trạng tử thi hơn người bình thường, nhưng tôi không phải chuyên gia pháp y. Tôi không thể xác định đúng đến từng giờ thời điểm mất mạng chính xác của Robertson.

Lập luận cho thấy giờ tử vong vào khoảng năm giờ rưỡi đến bảy giờ bốn mươi lăm. Suốt khoảng thời gian đó, tôi lục lọi ngôi nhà ở Camp’s End của gã và khám phá căn phòng tối đen, chở Elvis tới bữa tiệc nướng tại nhà cảnh sát trưởng rồi chở Elvis đến nhà thờ, và thơ thẩn một mình đến nhà Ozzie “bé”.

Cảnh sát trưởng Porter và khách khứa của ông có thể xác minh nơi tôi có mặt trong một phần khoảng thời gian đó, nhưng không tòa án nào chấp thuận tuyên bố rằng hồn ma của Elvis có thể cho tôi chứng cớ ngoại phạm trong khoảng thời gian kia.

Khả năng lâm nguy của tôi trở nên rõ ràng hơn vào lúc đó, và tôi biết thời gian đang cạn dần. Khi tiếng gõ cửa rốt cuộc sẽ vang lên, đó rất có thể là cảnh sát đến theo lời mách nước của một kẻ nặc danh.