Chương 50

Dù là một gã đã chết, không còn góp phần vào các mưu đồ và trò săn đuổi của thế giới này, Robertson vẫn lây lất với vẻ dữ tợn kì quặc, điên tiết hệt như lúc tôi quan sát gã từ tháp chuông của nhà thờ St.Bart. Thân hình cây nấm béo ú giờ có vẻ sung sức, ngay cả với những chỗ sưng phù. Khuôn mặt ngờ nghệch và những đường nét mờ mờ đã đanh lại và sắc nét bởi cơn thịnh nộ.

Không lỗ đạn, vết cháy sém hay vết ố nào làm bẩn áo gã. Khác với Tom Jedd, người lảng vảng ngoài chỗ Tire World mang cánh tay đứt lìa và giả vờ dùng nó làm cây gãi lưng, Robertson phủ nhận cái chết của gã và chọn cách không trưng ra vết thương chí mạng, hệt như Penny Kallisto lúc đầu không để lộ dấu vết bị bóp cổ, những đường hằn của sợi dây hiện ra chỉ khi có mặt Harlo Landerson, kẻ hãm hại em.

Trong tâm trạng kích động cao độ, Robertson đảo quanh bếp. Gã nhìn tôi trừng trừng, cặp mắt dại đi và bồn chồn hơn cả mắt bầy sói ở Nhà thờ Sao chổi Thì thầm.

Khi tôi bắt đầu điều tra gã, tôi không cố ý biến gã thành của nợ của đồng bọn, đẩy gã vào đường chết và tôi không bóp cò súng. Tuy nhiên, rõ ràng lòng căm thù gã dành cho tôi còn vượt hơn cả mức dành cho kẻ gϊếŧ chết gã; nếu không gã đã đi ám chỗ khác.

Từ lò hấp bánh đến tủ lạnh, đến bồn rửa, quay lại lò hấp bánh, gã đảo quanh trong lúc tôi khom xuống nhặt điện thoại làm rơi khi nãy. Đã chết queo, gã không còn khiến tôi bận tâm nhiều như lúc ở khu đất nhà thờ, tôi tưởng gã còn sống.

Khi tôi kẹp điện thoại vào thắt lưng, Robertson đến chỗ tôi. Lù lù trước mặt tôi. Mắt gã mang màu xám như lớp băng dính bẩn, nhưng chúng chuyển tải sức nóng của cơn giận cực độ.

Tôi đón lấy ánh nhìn chòng chọc của gã và không thoái lui. Tôi học được rằng tỏ ra sợ hãi trong những trường hợp thế này chẳng khôn ngoan chút nào.

Khuôn mặt nặng ì của gã quả thực mang đặc tính của nấm, loại nấm giống như thịt. Y chang nấm Portobello[48]. Cái môi tái nhợt không còn giọt máu của gã nằm thụt lùi ra sau bộ răng rất ít khi được chăm sóc.

[48] Nấm Portobello có thớ giống như thịt.

Gã với tay qua mặt tôi và khum tay phải chộp lên gáy tôi.

Bàn tay Penny Kallisto khô và ấm. Tay Robertson ướt và lạnh.

Đó không phải bàn tay thật của gã, dĩ nhiên, đó chỉ là bộ phận của một bóng ma, một oan hồn hiện hình mà chỉ mình tôi mới cảm nhận được; trạng thái của sự đυ.ng chạm ấy bộc lộ tính cách của linh hồn.

Tuy không e dè kiểu tiếp xúc bí hiểm nhưng tôi rúm người lại trước ý nghĩ bàn tay đó đã mân mê mười món đồ lưu niệm trong ngăn ướp lạnh. Kính thích thị giác bằng những chiến lợi phẩm đông lạnh kia chắc không phải lúc nào cũng tạo cảm giác thỏa mãn. Có thể thỉnh thoảng gã ủ ấm chúng để gia tăng kɧoáı ©ảʍ sờ mó và để gợi lại kí ức sống động hơn của từng vụ sát hại - ngắt, véo, vuốt ve, mơn trớn, đặt những nụ hôn âu yếm lên các vật kỷ niệm ấy.

Không linh hồn nào, kể cả ma quỷ xấu xa, có thể hãm hại một người sống chỉ bằng cách đυ.ng chạm. Đây là thế giới của chúng ta, không phải của chúng. Cú đấm của chúng trượt xuyên qua ta, cú ngoạm của chúng không gây chảy máu.

Khi Robertson nhận ra không thể khiến tôi khϊếp hãi, gã bỏ tay ra khỏi cổ tôi. Cơn giận của gã tăng gấp đôi, gấp ba, làm mặt gã méo như cái mặt nạ đầu người.

Có một cách để linh hồn hãm hại người sống. Nếu bản chất của chúng đủ hiểm độc, nếu chúng dồn hết tâm can vào cái ác cho đến khi ác tâm chín muồi thành khối u nan y trong linh hồn, chúng có thể dồn năng lượng của cơn thịnh nộ quỷ quyệt và trút nó lên những vật vô tri vô giác.

Ta gọi chúng là yêu tinh. Tôi từng mất một dàn nhạc mới toanh cho thực thể loại đó, cũng như tấm bằng đẹp đẽ khen thưởng khả năng sáng tác mà tôi giành được trong cuộc thi viết văn thời phổ thông do anh Ozzie “bé” làm giám khảo.

Như đã làm trong phòng để đồ thờ tại nhà thờ St. Bart, linh hồn phẫn nộ của Robertson càn quét khắp gian bếp, và từ hai tay của gã tuôn ra những luồng năng lượng mà tôi có thể nhìn thấy. Không khí rung chuyển cùng các xung lực ấy, một cảnh tượng tương tự những gợn sóng đồng tâm loang khắp mặt nước từ điểm va chạm với hòn đá.

Cửa tủ bay ra, ập vào, mở tung, đóng sầm, kêu la lớn tiếng hơn và vô nghĩa hơn cả quai hàm của những tay chính khách huênh hoang. Đĩa ào ra khỏi kệ, từng cái chém phăng không khí với tiếng vυ"t của cú ném đĩa do vận động viên Olympic thực hiện.

Tôi thụp đầu tránh một li rượu, nó đập vào cửa lò hấp vỡ bùm, phun ra khối mảnh vỡ lấp lánh. Mấy cái li khác quay tròn cách xa tôi, tông vào tường, tủ, mặt kệ bếp.

Yêu tinh đều là bọn tức giận mù quáng và thích đập phá, không nhằm mục tiêu cũng chẳng kiểm soát. Chúng chỉ có thể hại bạn bằng một cú đấm may mắn lạc hướng. Thế nhưng cho dù do lạc hướng và may mắn thì trò chém đầu cũng đủ sức hủy luôn đời bạn.

Phụ họa bằng tiếng vỗ tay tán dương của hai cánh cửa tủ bằng gỗ, Robertson tung nguồn năng lượng ra khỏi đôi tay. Hai cái ghế nhảy tưng tưng tại bàn ăn, nện xuống vải sơn lót sàn, va lách cách vào chân bàn.

Trên bếp, không ai đυ.ng đến, bốn núm vặn điều khiển xoay tròn. Bốn vòng lửa bếp gas tỏa thứ ánh sáng xanh rực ma quái trong gian bếp tăm tối.

Cảnh giác với những thứ phụt ra có thể gây chết người, tôi né xa Robertson và hướng đến cánh cửa đã đưa tôi vào nhà.

Một ngăn kéo bật mở, tiếng khua khoắng chói tai của dao nĩa bùng ra, chúng lấp lóa và kêu leng keng trong tình trạng sôi sục bay lên, như thể những hồn ma đói ngấu đang cắt - xiên - múc bữa tối theo kiểu cũng vô hình như chính bọn chúng.

Tôi thấy những đồ vật ấy tiến đến, chúng xuyên qua Robertson mà không ảnh hưởng gì đến hình thể của gã, và tôi nghiêng sang bên, giơ hai cánh tay làm khiên che chắn khuôn mặt. Bọn dao nĩa xem tôi như mẩu sắt, hút vào, quất tới tấp.

Một cây nĩa phóng bay qua hàng phòng vệ, phập lên trán tôi và xước ngược một đường lên đầu tôi.

Khi cơn mưa thép không gỉ rào rào rơi dồn đống xuống sàn nhà phía sau lưng, tôi mới dám hạ thấp cánh tay.

Hệt một tên khổng lồ độc ác nhảy nhót theo điệu nhạc ám muội mà chỉ mình hắn nghe thấy, Robertson đấm - cào - xoắn không khí, xem như muốn hú hét la ó, nhưng chỉ là vẫy vùng trong sự thinh lặng tuyệt đối của một kẻ quá cố không còn nói nên lời.

Ngăn trên của cái tủ lạnh lỗi thời bật mở, trào ra bia, nước ngọt, đĩa thịt hộp, miếng bánh dâu, thức ăn bị tống tháo tung tóe và loảng xoảng khắp sàn. Khoen nổ bốp; bia và nước ngọt tràn lan từ những cái lon xoay tròn.

Tủ lạnh cũng bắt đầu rung bần bật, va đập dữ dội hết bên này đến bên kia, những ngăn rau quả phía bên hông khua lách cách; khung kim loại trong tủ lạnh kêu ầm ĩ.

Đá mấy lon bia lăn lông lốc và đống dao nĩa rơi vãi sang một bên, tôi tiếp tục hướng đến cánh cửa dẫn ra nhà để xe.

Tôi lách sang trái, trượt phải vũng nước bia sủi bọt và cái muỗng cong queo.

Với những bộ phận thân thể đông lạnh rùng rợn vẫn còn nương náu trong ngăn ướp lạnh, cái tủ lạnh trượt qua tôi và tông vào tường một cú mạnh đến mức khiến cột kèo sau lớp vữa nứt răng rắc.

Tôi đâm đầu ra ngoài, lao vào bóng mát trong nhà để xe và đóng sầm cánh cửa sau lưng.

Bên trong, cuộc huyên náo còn tiếp tục, thình thịch và loảng xoảng, lách cách và rầm rầm.

Tôi không mong linh hồn biến chất của Robertson bám theo, ít ra cũng đừng bám theo trong một khoảng thời gian. Một khi dính vào cơn điên phá hoại, yêu tinh thường mất kiểm soát đến khi chúng vắt kiệt sức mình và bỏ đi trong tình trạng rối bời để lại trôi dạt đến một vùng ăn năn nằm giữa thế giới này và thế giới tiếp theo.